Kiến trúc đẹp tại Đức được khách du lịch ghé thăm nhiều nhất

Đức tên chính thức là Cộng hòa Liên bang Đức, là quốc gia độc lập có chủ quyền ở khu vực Trung Âu. Quốc gia này là một nước cộng hòa dân chủ tự do và là một nước nghị viện liên bang bao gồm 16 bang. Được mệnh danh là Trái tim của Châu Âu, nước Đức cất giấu những di tích lịch sử lừng danh toàn thế giới và những thắng cảnh mỹ miều. Nói đến địa điểm du lịch Đức phải đến chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào bỏ qua những tòa lâu đài tráng lệ, những kiến trúc cổ xưa, thung lũng rộng lớn, rừng xanh bạt ngàn,…

KHÁM PHÁ KIẾN TRÚC THẾ GIỚI

Văn hóa tại các bang của Đức được định hình từ các trào lưu tri thức và đại chúng lớn tại châu Âu, cả tôn giáo và thế tục. Đức nổi tiếng với các truyền thống lễ hội dân gian như Oktoberfest và phong tục giáng sinh gồm các vòng hoa Mùa Vọng, hoạt cảnh Chúa Giáng sinh, cây thông Giáng sinh, bánh Stollen, cùng các nghi thức khác.

Trường phái Wessobrunner gây ảnh hưởng quyết định lên, và đương thời thậm chí là chi phối, nghệ thuật trát vữa stucco tại miền nam Đức trong thế kỷ XVIII.
Trường phái Wessobrunner gây ảnh hưởng quyết định lên, và đương thời thậm chí là chi phối, nghệ thuật trát vữa stucco tại miền nam Đức trong thế kỷ XVIII.

Phần đóng góp kiến trúc tại Đức bao gồm các phong cách Karoling và Otto, tiền thân của Kiến trúc Roman. Gothic Gạch là một phong cách Trung Cổ đặc biệt được tiến triển tại Đức. Trong kiến trúc Phục Hưng và Baroque, các yếu tố khu vực và điển hình của Đức tiến triển. Trong số nhiều bậc thầy Baroque nổi danh có Pöppelmann, Balthasar Neumann, Knobelsdorff và anh em nhà Asam. Kiến trúc đẹp tại Đức thường được nhận biết thông qua truyền thống khung gỗ (Fachwerk) và khác biệt giữa các khu vực, và trong các phong cách mộc.

Đức thường được nhận định là cái nôi của kiến trúc và thiết kế hiện đại. Ludwig Mies van der Rohe trở thành một trong các kiến trúc sư nổi tiếng nhất thế giới vào nửa sau thế kỷ XX.
Đức thường được nhận định là cái nôi của kiến trúc và thiết kế hiện đại. Ludwig Mies van der Rohe trở thành một trong các kiến trúc sư nổi tiếng nhất thế giới vào nửa sau thế kỷ XX.

Kiến trúc Đức phát triển trong thập niên 1910 tại Đức và ảnh hưởng đến Art Deco và các phong cách hiện đại khác, có các kiến trúc sư nổi bật như Erich Mendelsohn. Đức đặc biệt quan trọng vào đầu phong trào hiện đại: đây là quê hương của Werkbund do Hermann Muthesius khởi xướng (Tân Khách quan), và của phong trào Bauhaus do Walter Gropius thành lập. Ông thai nghén tòa nhà chọc trời có kính bao phủ bề ngoài. Các kiến trúc sư và văn phòng đương đại nổi tiếng gồm có Hans Kollhoff, Sergei Tchoban, KK Architekten, Helmut Jahn, Behnisch, GMP, Ole Scheeren, J. Mayer H., OM Ungers, Gottfried Böhm và Frei Otto – được trao giải Pritzker.

Bức tường Berlin

Bức tường Berlin từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là “Tường thành bảo vệ chống phát xít” và bị người dân Cộng hoà Liên bang Đức gọi là “Bức tường ô nhục” là một phần của biên giới nội địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây Berlin của Tây Đức với phần phía Đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989.

Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức.
Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức.

Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người.

Vào thời gian cuối, hệ thống bảo vệ biên giới bao gồm (từ hướng của Đông Đức):

  • Tường bê tông hay rào sắt cao khoảng từ 2 đến 3 mét
  • Dưới đất là hệ thống phát tín hiệu báo động khi chạm vào
  • Rào sắt cao hơn đầu người có gắn kẽm gai và dây báo động
  • Ngoài ra nhiều đoạn còn có chó đặc nhiệm, hào cản xe cơ giới và cản xe tăng, chỉ được hủy bỏ sau khi Tây Đức cho vay hàng tỷ đồng DM.
  • Đường đi có chiếu sáng về đêm cho lực lượng biên phòng
  • Tháp canh (tổng cộng 302 tháp vào năm 1989)
  • Bức tường Berlin
  • Trước đấy là vài mét lãnh thổ của nước Đông Đức.

Hệ thống bảo vệ biên giới này có chiều ngang tổng cộng khoảng từ 30 m đến khoảng 500 m (ở Quảng trường Potsdam) tùy thuộc vào địa hình.

Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức.
Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức.

Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands – SED), dưới sự bảo vệ và canh phòng của lực lượng Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân Quốc gia – trái với những lời cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước của Đông Đức, Walter Ulbricht, người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông Berlin vào ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ nhà báo Tây Đức Annamarie Doherr.

“Tôi hiểu câu hỏi của bà là có những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động công nhân xây dựng của thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường. Tôi không biết có một ý định như thế vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn lực của họ để xây chủ yếu là nhà dân cư. Không một ai có ý định dựng lên một bức tường cả!”. Vì thế mà Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức tường trong việc này – hai tháng trước khi bức tường được dựng lên.

Tự do có nhiều khó khăn và dân chủ không phải là tuyệt hảo. Nhưng chúng tôi không bao giờ phải dựng lên một bức tường để giữ lại những người dân của chúng tôi – để ngăn cản họ rời bỏ chúng tôi.

John F. Kennedy, phát biểu tại Bức tường Berlin ngày 26 tháng 6 năm 1963;

Lâu đài Neuschwanstein

Lâu đài Neuschwanstein là một lâu đài nằm trong địa phận của làng Schwangau gần Füssen trong miền nam nước Đức do Vua Ludwig II của Bayern cho xây dựng. Lâu đài này là lâu đài nổi tiếng nhất trong số các lâu đài của Ludwig II và là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Đức. Lâu đài còn được các doanh nghiệp lữ hành gọi là “Lâu đài trong truyện cổ tích”.

Lâu đài được trang bị với những kỹ thuật tiên tiến nhất vào thời kỳ này, thí dụ như hệ thống chuông gọi người hầu chạy bằng pin hay một hệ thống sưởi trung tâm.
Lâu đài được trang bị với những kỹ thuật tiên tiến nhất vào thời kỳ này, thí dụ như hệ thống chuông gọi người hầu chạy bằng pin hay một hệ thống sưởi trung tâm.

Lâu đài được sử dụng làm hình mẫu cho “lâu đài nàng công chúa ngủ” trong công viên Walt Disney. Ngay gần đấy là Lâu đài Hohenschwangau, nơi Ludwig II cư ngụ với gia đình vào mùa hè khi ông còn niên thiếu. Lâu đài được xây để làm nơi ở riêng cho vua Ludwig, cho đến khi ông qua đời vào năm 1886. Lâu đài được mở cửa cho công chúng tham quan ngay sau khi ông qua đời. Kể từ thời điểm đó, tổng cộng đã có hơn 61 triệu lượt người tham quan lâu đài Neuschwanstein. Mỗi năm có hơn 1,3 triệu lượt người tham quan lâu đài này, với 6.000 lượt người mỗi ngày vào mùa hè.

Trước khi bắt đầu xây dựng lâu đài mới, tàn tích của hai lâu đài cũ này đã bị phá hủy hoàn toàn. Vua Ludwig II muốn xây dựng một lâu đài “theo đúng phong cách của một lâu đài hiệp sĩ Đức” như ông đã viết trong một bức thư gửi Richard Wagner vào ngày 15 tháng 5 năm 1868. Thế nhưng cảm hứng của Ludwig II không những chỉ xuất phát từ nước Đức thời Trung cổ mà còn từ thế giới người Moor đã từ Bắc Phi xâm lấn Tây Ban Nha từ năm 711 và thế giới truyện thần thoại của Richard Wagner. Eduard Reidel và Christian Jank đã cung cấp các bản phác thảo cho ông.

Lâu đài có một hệ thống nước nóng riêng, là một điều mới mẻ trong thời gian đấy cũng nhưng nhà xí có nước dội tự động.
Lâu đài có một hệ thống nước nóng riêng, là một điều mới mẻ trong thời gian đấy cũng nhưng nhà xí có nước dội tự động.

Mặc dù không được hoàn tất nhưng lâu đài có rất nhiều phòng nội thất theo phong cách Tân Lãng mạn. Thuộc trong số các phòng quan trọng nhất trong số đó là Đại sảnh ngự triều (Thronsaal) cao hai tầng và là căn đại sảnh lớn thứ nhì của lâu đài. Các bức bích họa là do Wilhelm Hauschild sáng tác. Căn phòng lớn nhất trong lâu đài là Đại sảnh Ca sĩ (Sängersaal), được xây dựng theo kiểu mẫu của Đại sảnh Ca sĩ trong Lâu đài Wartburg. Bên cạnh các gian đại sảnh lộng lẫy là các gian phòng cư ngụ nhỏ hơn cho Ludwig. Giữa phòng sinh hoạt và phòng làm việc mang tính riêng tư là một gian phòng theo kiểu hang động được trang trí với tháp nước nhân tạo và ánh sáng ẩn hiện. Phòng ăn được nối liền với nhà bếp dưới đấy ba tầng lầu bằng một thang máy chuyên chở thức ăn. Phòng ngủ cùng với nơi cầu nguyện là hai căn phòng duy nhất được tạo dáng theo phong cách kiến trúc Tân Gothic.

Quảng trường Gendarmenmarkt

Tọa lạc tại khu vực trung tâm của thành phố Berlin, quảng trường thuộc quận Mitte, hàng năm đông đảo du khách tới đây chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính của kiến trúc tại Đức. Được xây dựng từ thế kỉ 18 và 19, có ba kiến trúc lớn làm nên danh tiếng của quảng trường là phòng hòa nhạc (Konzerthaus), nhà thờ Pháp (The Franzosischer Dom) và nhà thờ Đức (Deutscher Dom).

Ngoài ra, ngay tại khu vực trung tâm còn có bức tượng của đại thi sĩ người Đức Friedrich Schiller – người có tầm ảnh hưởng tới nền văn học thế giới. Một điểm đặc biệt là những công trình này hoàn toàn nguyên vẹn để mọi người có thể tới chiêm ngưỡng là nhờ vào công sức bảo tồn và trùng tu của Đức.

Chính quyền Đức đã "thay da đổi thịt" để một lần nữa công trình ấn tượng này lại ra mắt công chúng với vẻ đẹp cổ kính, gần như nguyên gốc.
Chính quyền Đức đã “thay da đổi thịt” để một lần nữa công trình ấn tượng này lại ra mắt công chúng với vẻ đẹp cổ kính, gần như nguyên gốc.

Mặc dù đã được thay tên thành Platz der Akademi vào những năm 1970 nhưng sau khi nước Đức thống nhất thì quảng trường được trả lại cái tên cũ là Gendarmenmarkt và sử dụng cho đến nay. Sở dĩ công trình này nổi tiếng và được mệnh danh là “quảng trường đẹp nhất Berlin” hay “quảng trường đẹp nhất trời Âu” vì nó vẫn mang hơi hướng của công trình nguyên bản trước đó chứ không vì trùng tu mà khác biệt hoàn toàn.

Ý tưởng xây dựng và bản thiết kế được thực hiện bởi kiến trúc sư Friedrich Schinkel vào năm 1821 trên nền nhà hát lớn Quốc gia đã bị thiêu hủy trước đó. Phòng hòa nhạc mang âm hưởng kiến trúc cổ điển và bên trong được thay mới bằng những trang thiết bị hiện đại hơn rất nhiều so với dáng vẻ bên ngoài của nó. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi tận mắt ngắm nhìn công trình tráng lệ này. Thông thường, du khách sẽ được tham quan mọi ngóc ngách bên trong trừ phòng hòa nhạc vì nó chỉ mở cửa khi có buổi hòa nhạc mà thôi. Tuy nhiên, mọi người có thể nhìn ngắm được vẻ đẹp tráng lệ của nó khi tĩnh lặng, không có bất kỳ hoạt động nào cũng rất thú vị.

Nhà thờ Đức cũng là nơi tổ chức những buổi cầu nguyện mang tầm quốc gia hoặc các sự kiện chính trị quan trọng.
Nhà thờ Đức cũng là nơi tổ chức những buổi cầu nguyện mang tầm quốc gia hoặc các sự kiện chính trị quan trọng.

Mặc dù được xây dựng vào năm 1708 do kiến trúc sư người Đức Martin Grünberg là người cầm trịch nhưng công trình chưa hoàn thiện. Mãi đến năm 1785 Carl von Gontard là người thiết kế mái vòm cho nhà thờ thì nơi này bắt đầu trở nên nổi tiếng vì phong cách kiến trúc đặc sắc. Tên chính thức của nhà thờ Đức là nhà thờ lớn Berlin và điểm đặc biệt nhất của nơi này là mặc dù được gọi là nhà thờ nhưng chưa bao giờ thực sự có giám mục làm việc tại đây mà nó hoạt động như một viện bảo tàng lịch sử.

Được xây dựng từ năm 1701 – 1705 bởi các tín đồ tin lành Huguenottheo, công trình dựa theo nguyên mẫu của nhà thờ Huguenot của Pháp. Cho đến năm 1785, kiến trúc sư Carl von Gontard xây dựng thêm phần tháp và cổng cho nhà thờ mang tới một không gian rộng rãi, đặc sắc nhất là phần mái vòm tân cổ điển. Nơi này cũng từng bị thiệt hại nặng nề bởi Thế chiến thứ II và sau đó đã được khôi phục, trùng tu thêm một số chi tiết. Tòa tháp cũng là nơi chứa bảo tàng Berlin Huguenot, dưới hầm là một nhà hàng ẩm thực địa phương để mọi người tới tham quan có thể thưởng thức.

Tòa nhà Reichstag

Tòa nhà Reichstag là một tòa nhà lịch sử ở Berlin, Đức, được xây dựng cho quốc hội Đế chế Đức. Đây là nơi diễn ra hội nghị của Quốc hội Đức từ 1894 đến 1933 và tái tổ chức thành trụ sở Bundestag từ 1999.

Tòa nhà được mở cửa vào năm 1894 và là trụ sở của quốc hội cho đến năm 1933, khi nó đã bị hư hỏng nặng sau khi nó bị đốt cháy. Sau Thế chiến II, toà nhà không được sử dụng; Quốc hội của Cộng hòa Dân chủ Đức họp mặt tại Palast der Republik ở Đông Berlin, trong khi Quốc hội Cộng hòa Liên bang Đức (Bundestag) họp tại Bundeshaus ở Bonn.

Trong cách sử dụng ngày nay, từ Reichstag của Đức để chỉ tới Tòa nhà Quốc hội, trong khi Bundestag (Quốc hội Liên bang) đề cập đến tổ chức.
Trong cách sử dụng ngày nay, từ Reichstag của Đức để chỉ tới Tòa nhà Quốc hội, trong khi Bundestag (Quốc hội Liên bang) đề cập đến tổ chức.

Tòa nhà đổ nát được xây dựng lại an toàn và được tân trang lại một phần trong những năm 1960, nhưng không có nỗ lực phục hồi hoàn toàn cho đến sau khi nước Đức thống nhất vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, khi nó được kiến ​​trúc sư Norman Foster chỉ huy tái thiết. Sau khi hoàn thành vào năm 1999, nó một lần nữa trở thành nơi hội họp của Quốc hội Đức: Bundestag hiện đại.

Thuật ngữ Reichstag, được dùng để chỉ nghị viện, có từ thời đế chế La Mã. Tòa nhà được xây dựng cho nghị viện của Đế chế Đức, được gọi là Reichstag dưới thời Cộng hòa Weimar. Sau này trở thành Reichstag của Đức Quốc xã, mà ngừng hoạt động như một nghị viện sau vụ cháy năm 1933. Thuật ngữ Reichstag không còn được sử dụng bởi các quốc hội Đức kể từ Thế chiến II.

Trước khi xây dựng xong, Philip Holzmann A.G. vào năm 1894, Wilhelm I đã chết (năm 1888, năm Ba Hoàng đế).
Trước khi xây dựng xong, Philip Holzmann A.G. vào năm 1894, Wilhelm I đã chết (năm 1888, năm Ba Hoàng đế).

Năm 1882, một cuộc thi kiến ​​trúc đã được tổ chức, với 200 kiến ​​trúc sư tham gia. Lần này, người chiến thắng, kiến ​​trúc sư người Đức Paul Wallot từ Frankfurt, thực sự đã nhìn thấy dự án Tân-Baroque của mình. Mô hình trực tiếp cho thiết kế của Wallot là Tòa nhà Tưởng niệm Philadelphia, tòa nhà chính của Triển lãm Centennial năm 1876. Một số tác phẩm điêu khắc trang trí của Reichstag của nhà điêu khắc Otto Lessing được thực hiện ở đây. Vào ngày 29 tháng 6 năm 1884, tảng đá tảng cuối cùng được đặt bởi Wilhelm I, ở phía đông của Königsplatz.

Người kế nhiệm cuối cùng của ông, Wilhelm II, đã có một cái nhìn kinh hoàng hơn về chế độ dân chủ trong nghị viện hơn ông nội của ông ta. Tòa nhà ban đầu được hoan nghênh cho việc xây dựng một vòm sắt ban đầu của kính và kính, được coi là một kỳ công kỹ thuật vào thời đó. Nhưng sự kết hợp của phong cách kiến ​​trúc đã đưa ra những lời chỉ trích lan rộng.

Lâu đài Burg Hohenzollern

Nằm trên một ngọn núi cao, Hohenzollern là lâu đài cao nhất ở nước Đức. Mây thường xuyên bao quanh lâu đài, tạo nên cảnh tượng khó quên. Hơn 350.000 du khách đến từ khắp nơi trên thế giới đến thăm lâu đài Hohenzollern mỗi năm, vì vậy đây là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Đức.

Du khách đi tham quan lâu đài cũng đừng quên đỉnh núi Zeller Horn đối diện với lâu đài cũng là một địa điểm ngắm cảnh tuyệt đẹp.
Du khách đi tham quan lâu đài cũng đừng quên đỉnh núi Zeller Horn đối diện với lâu đài cũng là một địa điểm ngắm cảnh tuyệt đẹp.

Từ lâu đài cổ tích nhỏ Lichtenstein, chỉ mất khoảng 40 phút lái xe là bạn sẽ tới lâu đài Hohenzollern nguy nga tráng lệ. Đây là nơi ở của đời trước triều đại nhà Hohenzollern và nằm ở ngoại biên dãy núi Swabian Alb. Đây là lâu đài thứ ba được xây dựng trên đỉnh núi Hohenzollern. Chiếc đầu tiên được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 11.

Lâu đài Hohenzollern là lâu đài cuối cùng được xây dựng giữa năm 1846 và năm 1867 với mục đích là nơi tưởng niệm của gia tộc. 
Lâu đài Hohenzollern là lâu đài cuối cùng được xây dựng giữa năm 1846 và năm 1867 với mục đích là nơi tưởng niệm của gia tộc.

Ngày nay, người ta xây dựng thêm nhiều hạng mục để lâu đài hiện đại hơn, có rạp chiếu phim và các buổi hòa nhạc ngoài trời. Nó cũng là nơi hội chợ Giáng sinh diễn ra thường niên. Những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn có thể tận hưởng kỳ nghỉ miễn phí ở đây.

Thư viện Công tước Anna Amalia

Thư viện Công tước Anna Amalia là một ngôi nhà ở Weimar, Đức, nơi chứa một bộ sưu tập văn học lớn và các tài liệu lịch sử. Nó là một phần của Di sản thế giới Weimar cổ điển được UNESCO công nhận từ năm 1998. Năm 2004, một đám cháy lớn đã thiêu hủy một phần đáng kể, quá trình phục hồi thực hiện ngay sau đó và kéo dài tới tận năm 2015.

Thư viện chứa khoảng 1.000.000 cuốn sách, 2.000 bản thảo thời Trung Cổ và cận đại, 600 sổ sách sơ khai, 10.000 tấm bản đồ và 4.000 bảng tổng phổ âm nhạc. Trong số này có 850.000 cuốn sách trọng tâm của văn học Đức, đặc biệt là bộ sưu tập của William Shakespeare bao gồm khoảng 10.000 cuốn sách cũng như một cuốn sách Kinh Thánh thế kỷ 16 của Martin Luther.

Tòa nhà chính được gọi là Grünes Schloss (Lâu đài Xanh) cũng chính là khu cư trú của Anna Amalia được xây dựng từ năm 1562 đến 1565 bởi kiến trúc sư Nikolaus Gromann.
Tòa nhà chính được gọi là Grünes Schloss (Lâu đài Xanh) cũng chính là khu cư trú của Anna Amalia được xây dựng từ năm 1562 đến 1565 bởi kiến trúc sư Nikolaus Gromann.

Sau ba năm mở cửa cho công chúng tham quan thì vào năm 1991, thư viện công tước đổi thành Nữ công tước Anna Amalia của Braunschweig-Wolfenbüttel, người đã sắp xếp vào năm 1766 một bộ sưu tập sách nhã nhặn đưa đến thư viện.

Nữ công tước đã chuyển tòa nhà thành thư viện vào năm 1761, để tìm gia sư cho con trai bà là Carl August bà đã thuê Christoph Martin Wieland, một nhà thơ và dịch giả nổi tiếng các tác phẩm của William Shakespeare. Các tác phẩm của Shakespeare do Wieland biên dịch tạo thành bộ sưu tập cốt lõi của thư viện này. Về mặt kiến trúc ở Đức, thư viện này nổi tiếng thế giới với hội trường mang phong cách Rococo hình bầu dục với bức chân dung của Đại công tước Carl August.

Bộ sưu tập âm nhạc gồm 13.000 cuốn sách rất đáng kể của Nữ công tước cũng được lưu trữ tại đây.
Bộ sưu tập âm nhạc gồm 13.000 cuốn sách rất đáng kể của Nữ công tước cũng được lưu trữ tại đây.

Một trong những đọc giả quen thuộc của thư viện này chính là Johann Wolfgang von Goethe, người đã từng nghiên cứu tại thư viện từ năm năm 1797 đến 1832. Tại đây còn có bộ sưu tập vở kịch Faust lớn nhất thế giới.

Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hầu hết các bộ sưu tập đã được lưu trữ ở nơi khác để bảo vệ nó khỏi những vụ đánh bom của quân Đồng Minh. Ngày nay, thư viện là một địa điểm nghiên cứu công cộng về văn học và lịch sử nghệ thuật, trọng tâm chính là văn học Đức thời cổ điển và thời kỳ lãng mạn muộn.

Nhà hát opera Semperoper

Semperoper là nhà hát opera của Sächsische Staatsoper Dresden và phòng hòa nhạc của Staatskapelle Dresden. Đây cũng là quê hương của Semperoper Ballett. Tòa nhà nằm trên Theaterplatz gần sông Elbe ở trung tâm lịch sử của Dresden, Đức.

Nhà hát opera ban đầu được xây dựng bởi kiến ​​trúc sư Gottfried Semper vào năm 1841. Sau trận hỏa hoạn kinh hoàng năm 1869, nhà hát opera được xây dựng lại, một phần nữa bởi Semper, và hoàn thành vào năm 1878. Nhà hát opera có lịch sử lâu đời về các buổi ra mắt, bao gồm các công trình lớn. của Richard Wagner và Richard Strauss.

Tòa nhà opera, tòa nhà đầu tiên của Semper, được coi là một trong những nhà hát opera đẹp nhất châu Âu.
Tòa nhà opera, tòa nhà đầu tiên của Semper, được coi là một trong những nhà hát opera đẹp nhất châu Âu.

Nhà hát opera đầu tiên tại vị trí của Semperoper ngày nay được xây dựng bởi kiến ​​trúc sư Gottfried Semper. Nó mở cửa vào ngày 13 tháng 4 năm 1841 với một vở opera của Carl Maria von Weber. Bản thân phong cách xây dựng đã được tranh luận giữa nhiều người, vì nó có các đặc điểm xuất hiện trong ba phong cách: thời kỳ đầu Phục hưng và Baroque, với các cột trụ phong cách Corinthian điển hình cho sự phục hưng cổ điển Hy Lạp. Có lẽ nhãn hiệu phù hợp nhất cho phong cách này sẽ là chủ nghĩa chiết trung , nơi những ảnh hưởng từ nhiều phong cách được sử dụng, một thực tế phổ biến nhất trong thời kỳ này.

Tòa nhà được coi là một ví dụ điển hình của kiến ​​trúc “Dresden Baroque “. Nó nằm trên Quảng trường Nhà hát ở trung tâm Dresden trên bờ sông Elbe. Trên đỉnh cổng có một chiếc Panther quadriga với tượng Dionysos. Nội thất được tạo ra bởi các kiến ​​trúc sư thời đó, chẳng hạn như Johannes Schilling. Các tượng đài trên cổng mô tả các nghệ sĩ, chẳng hạn như Johann Wolfgang von Goethe, Friedrich Schiller, William Shakespeare, Sophocles, Molière và Euripides. Tòa nhà cũng có tác phẩm của Ernst Rietschel vàErnst Julius Hähnel. Trong những năm trước chiến tranh, Semperoper đã công chiếu nhiều tác phẩm của Richard Strauss.

Với sự giúp đỡ đáng kể từ khắp nơi trên thế giới, nó đã mở cửa trở lại vào tháng 12 năm đó.
Với sự giúp đỡ đáng kể từ khắp nơi trên thế giới, nó đã mở cửa trở lại vào tháng 12 năm đó.

Năm 1945, trong những tháng cuối cùng của Thế chiến II, tòa nhà bị phá hủy phần lớn lần nữa, lần này là do trận ném bom Dresden và trận bão lửa sau đó , chỉ còn lại lớp vỏ bên ngoài. Đúng 40 năm sau, vào ngày 13 tháng 2 năm 1985, việc tái thiết nhà hát được hoàn thành. Nó đã được xây dựng lại để gần như giống với hình dáng của nó trước chiến tranh, nhưng với lợi ích của máy móc giai đoạn mới và một tòa nhà dịch vụ hậu phương hiện đại đi kèm. Semperoper mở cửa trở lại với vở opera được trình diễn ngay trước khi tòa nhà bị phá hủy vào năm 1945, Der Freischütz của Carl Maria von Weber. Khi sông Elbe tràn vào năm 2002, tòa nhà bị nước làm hư hỏng nặng.

Thư viện Stadtbibliothek

Stadtbibliothek Stuttgart là thư viện công cộng của thành phố Stuttgart. Nó được tổ chức như một bộ phận của văn phòng văn hóa thành phố và bao gồm thư viện trung tâm, 17 thư viện quận thành phố và hai xe đẩy sách. Năm 2013, nó nhận được giải thưởng quốc gia là Thư viện của năm. Từ năm 1965 đến năm 2011, thư viện trung tâm nằm ở Wilhelmspalais, được xây dựng 1834 – 1840 bởi Giovanni Salucci làm nơi ở của vua Württemberg. Năm 2011, nó được chuyển đến Stadtbibliothek am Mailänder Platz mới được xây dựng.

Thư viện mới của Stuttgart là một khối lập phương nguyên khối tập hợp tất cả các thư viện cổ trong một tòa nhà. Tòa nhà này là kết quả của một cuộc thi quốc tế do Eun Young Yi giành chiến thắng vào năm 1999. Một phần của Quy hoạch tổng thể từ Stuttgart 21, tòa nhà đã trở thành một cột mốc mới cho thành phố và Europaviertel. Việc xây dựng thư viện bắt đầu vào năm 2010 và kết thúc vào ngày 24 tháng 10 năm 2011. Chi phí của nó lên đến khoảng 80 triệu euro trong đó bao gồm 4 triệu euro cho không gian bên trong. Thư viện đón gần 2 triệu lượt khách mỗi năm.

Eun Young Yi đã thiết kế thư viện mới như một hình khối đơn giản với hai tầng dưới lòng đất và chín tầng trên mặt đất.
Eun Young Yi đã thiết kế thư viện mới như một hình khối đơn giản với hai tầng dưới lòng đất và chín tầng trên mặt đất.

Hình thức cơ bản của thư viện là một hình vuông. Chiều dài là 44 mét và chiều cao 40 mét. Khối lập phương là một tòa nhà có cấu trúc bao gồm một khung bê tông đúc sẵn với các phần tử gạch kính được đặt bên trong. The monolith dự định tạo ra một tính năng mới sẽ hoạt động như một điểm làm dịu cho toàn bộ khu vực, tạo ra định hướng về thị giác và không gian.

Các lối vào của tòa nhà nằm ở cả 4 mặt của khối lập phương. Ngôi nhà gồm bốn loại phòng, xếp từng lớp như vỏ củ hành. Mặt tiền khối kính tạo thành lớp bên ngoài. Phía sau nó là mặt tiền nội thất bằng kính. Trong khoảng trống giữa các lớp, bạn có thể tìm thấy các quyền truy cập. Còn cầu thang phía trong và các hành lang, ban công bên ngoài sử dụng thiết kế lối đi dạo.

Để cung cấp một không gian thiền định trong trung tâm thành phố bận rộn, bản tóm tắt yêu cầu nhà thiết kế tập trung vào “trọng tâm”. Yếu tố trung tâm bên trong tòa nhà là cái gọi là “trái tim” của thư viện. Nó là một không gian trung tâm cổ xưa kéo dài trên bốn tầng và không có bất kỳ chức năng thư viện cụ thể nào.

Là nguồn cảm hứng, Yi Architects dựa trên thiết kế của Pantheon, đề xuất năm 1785 Bibliothèque Nationale de France, con thuyền của Noah, và A Space Odyssey của Stanley Kubrick.

Đối với kiến ​​trúc sư, nó tượng trưng cho sự mở ra thế giới bên ngoài, thế giới tri thức.
Đối với kiến ​​trúc sư, nó tượng trưng cho sự mở ra thế giới bên ngoài, thế giới tri thức.

Hình thái xây dựng của đền Pantheon La Mã là cơ sở cho hình khối lập phương cao. Được chiếu sáng bởi giếng trời trung tâm, nó mang lại cho nó nét thiền định. Thư viện, mở ra mọi hướng, có tiền sảnh hình tròn. Nó cung cấp cho bạn một cái nhìn thoáng qua về thành phần của tòa nhà. Có một khu vực chờ, một khu vực đọc báo và một phân loại sách để trả lại các phương tiện truyền thông ở sảnh vào.

Không gian trung tâm khác, phòng trưng bày, nằm phía trên trái tim, có nguồn gốc từ thư viện quốc gia Pháp của Etienne Boullée. Nó chuyển thành một hình vuông, đối với kiến ​​trúc sư: “Một hình cầu hoàn hảo biến thành một hình khối hoàn hảo”. Từ tầng thứ năm, một sảnh hình phễu mở ra phía trên và tạo ra các khoảng không trung tâm lớn. Chỉ có sách bao quanh tiền sảnh. Nó có hai cầu thang xoắn ốc kéo dài lên đến đỉnh.

Tầng tám có một quán rượu nhỏ, một quán cà phê văn học, bộ sưu tập nghệ thuật và Graphothek. Từ đó, bạn có thể lên sân thượng, nơi có tầm nhìn 360 độ ra Thung lũng Stuttgart. Dưới cái gọi là “trái tim” là một sảnh tổ chức sự kiện có sức chứa khoảng 300 người. Sự kết hợp của các khu vực tĩnh tâm và các khu vực công cộng chạy xuyên suốt toàn bộ tòa nhà như một chủ đề không gian.

Một “studiolo” có thể được tìm thấy trên mọi tầng và gợi nhớ đến phòng nghiên cứu của thời kỳ Phục hưng.

Nhà thờ chính tòa Köln

Nhà thờ chính tòa Köln hay Nhà thờ lớn Köln với tên chính thức là Nhà thờ thánh Phêrô và Đức Mẹ Maria là một nhà thờ Công giáo Rôma tại Köln (còn được viết là Cologne) với chức năng là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Köln, Đức. Với độ cao 157 m nhà thờ này là nhà thờ cao thứ nhì của Đức sau Nhà thờ lớn Ulm (Ulmer Münster) và là nhà thờ cao thứ ba của thế giới. Nhà thờ chính tòa Köln đứng cạnh nhà ga chính của Köln và giáp với sông Rhein.

Nhà thờ lớn Köln là nhà thờ được xây dựng theo phong cách Gothic lớn thứ ba trên thế giới (sau Nhà thờ lớn Sevilla và Nhà thờ lớn Milano). Nhiều nhà sử học về nghệ thuật nhận định công trình xây dựng này là một sự phối hợp hài hòa có một không hai của tất cả các nguyên tố xây dựng và của trang trí trong phong cách kiến trúc Gothic thời Trung cổ. Vì lý do này mà năm 1996 nhà thờ lớn Köln được đưa vào trong danh sách di sản thế giới của UNESCO. Diện tích khổng lồ của mặt tây với hai tháp tổng cộng trên 7.000 m² cho đến nay vẫn chưa có nơi nào vượt qua được.

Nhà thờ chính tòa Cũ là công trình xây dựng tiền thân của nhà thờ lớn ngày nay.
Nhà thờ chính tòa Cũ là công trình xây dựng tiền thân của nhà thờ lớn ngày nay.

Từ 1880 đến 1888 Nhà thờ lớn Köln đã là ngôi nhà cao nhất thế giới. Thêm vào đó, nhà thờ là điểm tham quan nổi tiếng nhất ở Đức: Năm 2001 có 5 triệu khách tham quan, năm 2004 là 6 triệu khách tham quan đến từ khắp nơi trên thế giới. Và trong một ngày đón khoảng 20.000 khách tham quan.

Nhà thờ được khánh thành vào ngày 27 tháng 9 năm 873. Nhà thờ chính tòa Cũ có một tòa nhà dài, ở hai đầu là hai tòa nhà ngang. Nhà thờ chính tòa Cũ là kiểu mẫu cho rất nhiều nhà thờ hình thành trong châu Âu trong thời gian đó đấy và đã chứa chiếc Thập tự giá Gero hình thành từ thế kỷ 10 là chiếc thập tự giá cổ thứ nhì của phương Tây. Trong năm 1248 người ta muốn giật sập Nhà thờ chính tòa Cũ dần dần để có thể bắt đầu xây dựng một nhà thờ kiểu Gothic mới. Thế nhưng khi đốt cháy cánh hát hợp xướng phía Đông năm 1248, gần như toàn bộ nhà thờ đã cháy trụi. Phần phía tây được tái kiến thiết tạm thời để có thể hành lễ. Ngay trong năm đấy, công việc xây dựng Nhà thờ lớn Köln ngày nay đã được bắt đầu.

Bắt đầu từ năm 1956 nhà thờ lại tiếp tục thực hiện chức năng của nó cho người theo đạo.
Bắt đầu từ năm 1956 nhà thờ lại tiếp tục thực hiện chức năng của nó cho người theo đạo.

Nhà thờ đã bị hư hại trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cũng do trúng 70 quả bom. Bom cháy đã được những người canh gác trong và trên nhà thờ dập tắt ngay lập tức. Việc khai quật khảo cổ do Otto Doppelfeld lãnh đạo được bắt đầu trong năm 1946 và kéo dài cho đến 1997. Năm 1948 lễ kỷ niệm 700 năm ngày đặt viên đá đầu tiên được tiến hành trong nhà thờ lớn lúc đấy đang bị hư hại nặng.

Năm 1996 Nhà thờ lớn Köln được đánh giá là một trong những công trình kiến trúc Gothic đẹp nhất châu Âu và được công nhận là di sản thế giới của UNESCO. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2004 Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã đưa nhà thờ lớn Köln vào danh sách đỏ của di sản thế giới đang bị đe dọa do có kế hoạch xây dựng nhà cao tầng bên bờ sông Rhein đối diện với nhà thờ. Sau nhiều cuộc thương lượng, vào ngày 13 tháng 7 năm 2005 trong đại hội UNESCO tại thành phố Durban của Cộng hòa Nam Phi, quyết định cuối cùng được hoãn đi 1 năm để cơ quan chức năng của Đức có cơ hội cung cấp thông tin về kế hoạch xây dựng trong khu Köln-Deutz.

Trong tháng 7 năm 2006, Ủy ban di sản thế giới trong hội nghị lần thứ 30 tại Vilnius (Litva) quyết định đưa nhà thờ lớn Köln ra khỏi danh sách các di sản thế giới đang bị đe dọa do kế hoạch xây dựng hữu ngạn sông Rhein đã được thay đổi; ngoài “Köln Triangle” ra sẽ không có ngôi nhà cao tầng nào được xây dựng nữa.

Cầu Hohenzollern

Cầu Hohenzollern (tiếng Đức: Hohenzollernbrücke) là một cây cầu qua sông Rhine Đức tại thành phố Köln. Nó đi qua sông Rhine tại km 688,5. Ban đầu, cây cầu là cả một tuyến đường sắt và đường phố, tuy nhiên, sau khi nó bị phá hủy vào năm 1945 và tái thiết sau này của nó, cầu này chỉ còn là cầu đường sắt và giao thông cho người đi bộ.

Đây là cây cầu đường sắt được sử dụng nhiều nhất ở Đức, kết nối Hauptbahnhof Köln và nhà ga Köln Messe / Deutz với nhau.
Đây là cây cầu đường sắt được sử dụng nhiều nhất ở Đức, kết nối Hauptbahnhof Köln và nhà ga Köln Messe / Deutz với nhau.

Cây cầu được xây dựng từ năm 1907 và 1911 sau khi cây cầu cũ, cầu Giáo đường (Dombrücke), đã bị phá bỏ. Cầu Giáo đường đã không thể xử lý lưu lượng truy cập ngày càng tăng ở Köln. Nó được đặt tên theo nhà Hohenzollern.

Sau chiến tranh, cầu được xây dựng lại một cách nhanh chóng tổ chức, đến ngày 8 tháng 5 năm 1948, người đi bộ có thể đi qua cây cầu Hohenzollern một lần nữa.
Sau chiến tranh, cầu được xây dựng lại một cách nhanh chóng tổ chức, đến ngày 8 tháng 5 năm 1948, người đi bộ có thể đi qua cây cầu Hohenzollern một lần nữa.

Cây cầu Hohenzollern là một trong những cây cầu quan trọng nhất ở Đức trong Thế chiến II, ngay cả trong các cuộc không kích phù hợp hàng ngày cây cầu bị hư hỏng nặng. Ngày 6 tháng 3 năm 1945, các kỹ sư quân sự Đức đã làm nổ tung cầu khi quân đội Đồng Minh bắt đầu cuộc tấn công của ở Köln.

Mười một năm tiếp theo, cây cầu đã được nâng cấp cho đến khi năm 1959, nó có thể thể sử dụng mà không có bất kỳ hư hỏng.
Mười một năm tiếp theo, cây cầu đã được nâng cấp cho đến khi năm 1959, nó có thể thể sử dụng mà không có bất kỳ hư hỏng.

Trong thập niên1980, cây cầu đã được cải tạo với hai đường mới. Cầu Hohenzollern thường xuyên có hơn 1200 xe lửa đi qua hàng ngày. cây cầu được coi là một phần quan trọng của Köln như nó kết nối nhà ga trung tâm của Cologne với các thành phố lớn của châu Âu ở phía bên kia của sông Rhine.

Blog’s Nguyễn Kiều Việt Như, tổng hợp