Pháp có tên chính thức là Cộng hòa Pháp, là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần lãnh thổ Pháp tại châu Âu trải dài từ Địa Trung Hải đến eo biển Manche và biển Bắc, và từ sông Rhin đến Đại Tây Dương.
– KHÁM PHÁ KIẾN TRÚC THẾ GIỚI – |
Hiện nay, Pháp đón hơn 83 triệu du khách nước ngoài, xếp thứ nhất thế giới, trên Hoa Kỳ và Trung Quốc. Con số này không bao gồm những người ở tại Pháp dưới 24 giờ. Tuy nhiên, Pháp đứng thứ ba về thu nhập từ du lịch do khách có thời gian tham quan ngắn hơn. Pháp từng là một trung tâm phát triển văn hoá phương Tây trong nhiều thế kỷ. Nhiều nghệ sĩ Pháp nằm vào hàng có danh tiếng nhất trong thời kỳ của họ, và Pháp vẫn được thế giới công nhận về truyền thống văn hoá phong phú. Các chế độ chính trị kế tiếp nhau đã luôn thúc đẩy sáng tạo nghệ thuật, và việc lập Bộ Văn hoá vào năm 1959 giúp bảo tồn di sản văn hoá của quốc gia, và khiến chúng có giá trị đối với công chúng.
Kiến trúc Gothic ban đầu có tên là Opus Francigenum tức “công trình kiểu Pháp”, được tạo ra tại Île-de-France và là phong cách kiến trúc Pháp đầu tiên được phỏng theo trên toàn châu Âu. Miền bắc của Pháp có một số nhà thờ chính toà và vương cung thánh đường Gothic quan trọng nhất, đầu tiên phải kể đến Vương cung thánh đường Thánh Denis; và các nhà thờ chính toà như Đức Bà Chartres và Đức Bà Amiens. Các quốc vương đăng cơ tại một nhà thờ Gothic quan trọng khác là Đức Bà Reims.
Ngoài nhà thờ, kiến trúc Gothic còn từng được sử dụng tại nhiều địa điểm tôn giáo, quan trọng nhất là Cung điện của Giáo hoàng tại Avignon. Thắng lợi chung cuộc trong Chiến tranh Trăm năm đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong tiến triển của kiến trúc đẹp tại Pháp. Đây là thời kỳ của Phục Hưng Pháp và một số nghệ sĩ từ Ý được mời đến triều đình Pháp, nhiều cung điện được xây dựng tại thung lũng Loire, như các toà thành dinh thự Château de Chambord, Château de Chenonceau hay Château d’Amboise.
Tháp Eiffel
Tháp Eiffel là một công trình kiến trúc bằng thép nằm trên công viên Champ-de-Mars, cạnh sông Seine, thành phố Paris. Vốn có tên nguyên thủy là Tháp 300 mét, công trình này do kỹ sư Gustave Eiffel và các đồng nghiệp của mình thiết kế và xây dựng từ năm 1887 tới năm 1889 nhân dịp Triển lãm thế giới năm 1889, và cũng là dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp.
Chiều cao nguyên bản của công trình là 300 mét nếu theo đúng thiết kế, nhưng cột ăng ten radio kỹ thuật số mới trên đỉnh đã giúp tháp Eiffel đạt tới độ cao 330 mét. Từ khi khánh thành vào năm 1889, tháp Eiffel là công trình cao nhất thế giới và giữ vững vị trí này trong suốt hơn 40 năm. Ngay từ đầu, ngoài chức năng để du lịch, tháp Eiffel còn được sử dụng cho các mục đích của ngành khoa học.
Trở thành biểu tượng của “kinh đô ánh sáng”, tháp Eiffel là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất toàn cầu. Từ khi khánh thành cho tới năm 2007, tháp đã có hơn 236 triệu lượt khách viếng thăm.
Tháp Eiffel vốn được thiết kế để làm “cái đinh của Triển lãm thế giới năm 1889 tại Paris”, phô trương những công nghệ xây dựng của Pháp. Vào thời kỳ đầu, công trình đã gây ra những tranh cãi về vẻ thẩm mỹ, công năng… Tuy vậy, tháp Eiffel vẫn giành được thành công nhanh chóng, trở thành địa điểm thu hút du khách bậc nhất và con số dần ổn định từ những năm 1960.
Với thành công và dấu ấn kiến trúc ở Pháp, tháp Eiffel nhanh chóng trở thành biểu tượng của Paris, một thành phố vốn đã có nhiều công nhiều nổi tiếng khác. Qua hơn một thế kỷ, tháp Eiffel là một trong những công trình nổi tiếng nhất, thu hút nhất và xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học, điện ảnh, hội họa, nhiếp ảnh…
Vào năm 1996, viện SOFRES, cơ quan điều tra xã hội của Pháp, thực hiện một cuộc điều tra từ 15 tháng 3 tới 2 tháng 4 tại Ý, Anh, Tây Ban Nha, Đức, Mỹ và Nhật. Với câu hỏi “Bạn hãy nêu ba công trình châu Âu mà bạn biết, dù chỉ cái tên”, tháp Eiffel đứng đầu trong kết quả tại cả sáu quốc gia. Các công trình nổi tiếng khác của Paris như Khải Hoàn Môn, nhà thờ Đức Bà, Louvre, lâu đài Versailles cũng đạt được thứ hạng cao.
Trên khắp thế giới, nhiều bản sao và các công trình mô phỏng theo tháp Eiffel được xây dựng. Tại Hoa Kỳ, khách sạn và sòng bài Paris Las Vegas gần Las Vegas, Nevada, thực hiện bản sao các công trình nổi tiếng của Paris: Khải Hoàn Môn, nhà hát Opéra Garnier và một tháp Eiffel có chiều cao 165 mét. Tương tự, tại thành phố Hàng Châu, Trung Quốc, một Paris thu nhỏ được xây dựng với tháp Eiffel cao 108 mét. Cũng ở Trung Quốc, thành phố Thâm Quyến còn có một bản sao khác cao khoảng 100 mét.
Ở Đức, tháp truyền thanh Berlin, kiến trúc mô phỏng tháp Eiffel, được xây dựng từ 1924 tới 1926 bằng chất liệu thép, cao 150 mét. Nổi tiếng hơn, tháp Tokyo tại Nhật Bản được hoàn thành năm 1958, có chiều cao 333 mét.
Tháp Eiffel là trạm phát thanh sóng analog chính cho toàn vùng Paris. Ngoài ra, tháp cũng phát các sóng phát thanh FM, truyền hình analog và truyền hình kỹ thuật số.
Tòa nhà Maison Carrée
Maison Carrée là một tòa nhà cổ ở Nîmes, miền nam nước Pháp; nó là một trong những mặt tiền đền thờ La Mã được bảo tồn tốt nhất được tìm thấy trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã cũ.
Trong khoảng 4-7 sau Công nguyên, Maison carrée được dành riêng hoặc được trao lại cho Gaius Caesar và Lucius Caesar, cháu trai và người thừa kế của Augustus, cả hai đều chết trẻ. Dòng chữ dành tặng ngôi đền cho Gaius và Lucius đã bị xóa bỏ trong thời trung cổ. Tuy nhiên, một học giả địa phương, Jean-François Séguier, đã có thể tái tạo lại dòng chữ vào năm 1758 từ thứ tự và số lượng các lỗ trên mặt trận phù điêu và khuôn cửa, mà các chữ cái bằng đồng đã được dán bằng các hộp thiếc. Theo sự tái cấu trúc của Séguier, văn bản của sự cống hiến đã đọc: “Gửi Gaius Caesar, con trai của Augustus, Lãnh sự; cho Lucius Caesar, con trai của Augustus, Lãnh sự chỉ định; cho các hoàng tử của tuổi trẻ.”
Maison Carrée là một ví dụ về kiến trúc Vitruvian. Lớn lên trên bục cao 2,85 m, ngôi đền thống trị diễn đàn của thành phố La Mã, tạo thành một hình chữ nhật dài gần gấp đôi, rộng 26,42 m x 13,54 m. Các mặt tiền bị chi phối bởi một sâu hiên hoặc pronaos gần một phần ba chiều dài của tòa nhà. Đó là một thiết kế hexastyle với sáu cột Corinth dưới bàn chân ở hai đầu, và giả hành trong đó hai mươi cột tham gia được nhúng dọc theo các bức tường của phòng giam.
Trang trí trứng và phi tiêu phân chia kiến trúc sư từ frieze. Trên ba mặt của frieze được trang trí với các chạm khắc trang trí tinh xảo của hoa hồng và lá acanthus bên dưới một hàng răng rất mịn.
Maison Carrée lấy cảm hứng từ Église de la Madeleine tân cổ điển ở Paris, Nhà thờ St. Marcellinus ở Rogalin, Ba Lan và tại Hoa Kỳ, Tòa nhà Đại hội Bang Virginia, được thiết kế bởi Thomas Jefferson, người có một mô hình bằng vữa làm từ Maison Carrée khi ông còn là bộ trưởng tại Pháp năm 1785.
Nhà thờ chính tòa Đức Bà Reims
Nhà thờ Đức Bà Reims là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Reims, tại thành phố Reims, cộng hòa Pháp. Được xây dựng từ thế kỉ 13, đây là một trong các nhà thờ cổ nhất và cũng là lớn nhất của Pháp. Nhà thờ Đức Bà Reims còn là công trình kiến trúc Gothic tiêu biểu của Pháp và là nơi đăng quang của gần như toàn bộ các hoàng đế Pháp, vị vua cuối cùng làm lễ đăng quang tại đây là Charles X.
Năm 1991, quần thể kiến trúc tôn giáo Reims gồm nhà thờ Đức Bà, Cung điện Tau và Nhà thờ Saint-Remi đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Hiện nay đây là một trong những điểm thu hút khách du lịch lớn của Pháp, chỉ trong năm 2006 nó đã thu hút 1,5 triệu lượt khách.
Năm 1919 sau khi chiến tranh kết thúc, việc tu sửa nhà thờ được tiến hành ngay dưới sự chỉ đạo của kiến trúc sư Henri Deneux. Hiện nay các gác chuông của nhà thờ chỉ còn 2 quả chuông là Marie (nặng 12 tấn) và Charlotte (nặng 8 tấn), chúng không còn được sử dụng vì sợ sẽ làm nguy hiểm tới cấu trúc nhà thờ vốn đã bị tổn hại một lần nữa trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nhà thờ Đức Bà Reims có số tượng được trang trí vào loại lớn nhất châu Âu với tổng số lên tới 2303 bức. Kiến trúc của nhà thờ tương đối đồng nhất mặc dù đã trải qua quá trình xây dựng và tu sửa kéo dài. Chiều cao của gian chính là 38 mét, chiều cao tối đa của hai tháp chuông là 87 mét.
Bệnh viện Pitié-Salpêtrière
Bệnh viện Pitié-Salpêtrière là một bệnh viện thuộc cơ quan Cứu tế công cộng – Bệnh viện Paris (AP – HP), nằm ở đại lộ Hôpital, Quận 13. Lịch sử bệnh viện bắt nguồn từ dưỡng đường Notre Dame de la Pitié do Marie de Médicis xây dựng vào thế kỷ 17. Trong thế kỷ 17 và 18, Salpêtrière giữ vai trò địa điểm từ thiện của thành phố và trong thế kỷ 19 trở thành một bệng viên quân y. Ngày nay, Pitié-Salpêtrière là một trong những bệng viện lớn nhất châu Âu, đồng thời kèm chức năng đào tạo y khoa. Trong suốt lịch sử của bệnh viện, Pitié-Salpêtrière đã có nhiều bác sĩ và cả bệnh nhân nổi tiếng.
Từ thời kỳ La Mã cho tới Trung Cổ, vị trí của bệnh viên ngày nay là một khu đất nông nghiệp, bao quanh bởi nhiều đầm lầy kéo dài tới tận bờ sông Seine. Những nông dân nghèo ở Saint Marcel gần đó, tới địa điểm này để trồng rau và nho. Thế kỷ 13, việc khai thác đá bắt đầu được tiếng hành ở đây và kéo dài trong nhiều thế kỷ sau đó.
Năm 1612, Marie de Médicis cho xây dựng dưỡng đường Notre Dame de la Pitié trên vị trí của Nhà thờ Hồi giáo ngày nay. Ngày 6 tháng 6 năm 1636, Louis XIII cho mua lại khu vực này để sử dụng làm nơi sản xuất thuốc súng, mang tên Petit Arsenal hay Salpêtrière. Petit Arsenal hoạt động được 15 năm thì đóng cửa. Louis XIV tặng lại mảng đất cho Nữ công tước Aiguillon.
Trong khoảng thời gian từ 1756 tới 1770, Louis XV cho sửa chữa lại và Salpêtrière dần có được dàng vẻ như ngày nay. Thời Louis XVI, Paris được mở rộng, Salpêtrière thuộc về nội ô thành phố. Vào thời kỳ Cách mạng Pháp, sau khi cách chức toàn bộ ban giám đốc Salpêtrière, Quốc hội lập hiến giao cho Hội đồng thành phố quản lý bệnh viện. Salpêtrière từ một khu vực khép kín dành cho phụ nữ trở thành một nơi trụy lạc, địa điểm các sans-culotte tìm đến để thỏa mãn. Trong vụ thảm sát Tháng Chín, ngày 4 tháng 9 năm 1792, 35 phụ nữ đã bị những người tới từ nhà tù Bicêtre giết chết. Tới cuối năm 1792, Salpêtrière dần yên tĩnh trở lại.
Thế kỷ 19, Salpêtrière dần trở thành một bệnh việc thực sự. Trong thời gian chiến tranh, năm 1814, Pitié phải đón tiếp các nhóm lính nước ngoài. Còn Salpêtrière dành cho binh lính Pháp. Cách mạng 1848, dưỡng đường bị bãi bọ và tới 1849, cơ quan Cứu tế công cộng được thành lập. Salpêtrière chủ yếu dành cho những nữ bệnh nhân tâm thần, phụ nữ già. Cuối Đệ nhị đế chế, năm 1870, Salpêtrière được sử dụng làm bệnh viện quân y.
Thế kỷ 20, Salpêtrière trở thành một bệnh viện đa khoa. Pitié được xây dựng lại và hợp nhất với Salpêtrière vào năm 1964. Năm 1966, khoa Y thành lập. Pitié-Salpêtrière được đầu tư trong một khoảng thời gian dài, trở thành một trong những bệnh viện lớn nhất châu Âu.
Lâu đài Chenonceau
Lâu đài Chenonceau là một thái ấp gần ngôi làng nhỏ Chenonceaux, trong tỉnh Indre-et-Loire, Thung lũng sông Loire ở Pháp. Nó được xây dựng trên địa điểm của một nhà máy cũ trên sông Cher, đôi khi trước khi đề cập đến đầu tiên của mình bằng văn bản trong thế kỷ 11. Thái ấp hiện nay được thiết kế bởi kiến trúc Pháp thời kỳ Phục hưng Philibert Delorme.
Đây là một trong những lâu đài thường được gọi là lâu đài của Loire. Được xây dựng năm 1513 bởi Katherine Briçonnet, trang trí bởi Diane de Poitiers và Catherine de Medici, được bảo vệ trong cuộc Cách mạng Pháp bởi Louise Dupin, nó cũng được gọi là lâu đài các quý cô.
Bên trong lâu đài được trang trí bằng những bức tranh hiếm và tấm thảm cổ, hoa trong mỗi mùa, các di tích lịch sử tại Pháp, một số vườn cảnh, công viên và vườn nho.
Lâu đài được xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ 16 khoảng 1514-1522 để phục vụ tầng lớp quý tộc. Ban đầu, lâu đài nằm cách tòa nhà hiện tại 600m nhưng đã bị đốt cháy trong một trận hỏa hoạn. Còn được gọi là lâu đài của Quý bà “Chateau de Dame” do vua Henri II trao quyền sử dụng lâu đài cho người tình của mình, Diane de Poitiers. Bà cũng là một trong những người đã để lại dấu ấn trong thiết kế của lâu đài.
Phòng trưng bày và tường nhà nguyện được làm bằng Tufa, một loại đá vôi của vùng Loire, cũng là vật liệu được sử dụng để xây dựng mặt tiền. Đá được khai thác ngay tại khu vực gần lâu đài.
Các tác phẩm nghệ thuật và đồ nội thất được trưng bày khắp các phòng. Bạn có thể bắt gặp các tác phẩm của Rubens, Primaticcio, Tintoretto và các tác phẩm khác từ bảo tàng Louvre.
Những chậu hoa là điểm nhấn cho sự nữ tính của nữ chủ nhân ngày trước. Nhà bếp được giữ và trang trí như bản gốc nhà bếp từ thế kỉ XVI. Không chỉ là những bông hoa dây leo làm tăng thêm vẻ đẹp của lâu đài, hoa nở cũng chứng tỏ sự phát triển mạnh khỏe của cây cối. Hoa hồng leo thường được chọn trồng bởi nó không chỉ đẹp mà còn rất nhạy với thời tiết.
Bao quanh lâu đài là cây xanh tươi tốt và vườn hoa từng được trồng bởi Diane de Poitiers. Đừng quên ghé thăm và ngắm nhìn lâu đài từ cả hai phía. Bên cạnh còn có một nhà hàng nhỏ rất tiện để ngắm lâu đài với giá cả khá hợp lý.
Nhà thờ Sainte-Chapelle
Sainte-Chapelle là một nhà thờ Công giáo nằm trên đảo Île de la Cité, thuộc Quận 1 thành phố Paris. Công trình này được vua Louis IX xây dựng vào giữa thế kỷ 13, dành cho các thánh tích của Chúa Giêsu. Sainte-Chapelle mang phong cách kiến trúc Gothic tiêu biểu, ngày nay là một trong những địa điểm du lịch quan trọng của Paris.
Nằm trên đảo Île de la Cité, gần nhà thờ Sainte-Chapelle còn nhiều công trình nổi tiếng khác như nhà thờ Đức Bà, Conciergerie, Tòa án tư pháp…
Công trình dài 36 mét, rộng 17 mét, nhưng có chiều cao tới 42 mét, bao gồm hai nhà thờ nhỏ, ở dưới và ở trên. Tiêu biểu kiến trúc đẹp ở Pháp, nhà thờ Sainte-Chapelle được trang trí một bộ 15 cửa kính màu cùng một cửa kính lớn hình hoa hồng. Bên cạnh đó còn nhiều tác phẩm điêu khắc và họa phẩm trên tường.
Nhà thờ phía dưới của Sainte-Chapelle, thờ Đức Mẹ, trước kia dành cho dành cho những gia nhân của cung điện. Phần dưới này được bao quanh bởi các cột trụ, chịu sức nặng của nhà thờ phía trên.
Nằm gần cung điện hoàng gia, nhà thờ phía trên thông với các phòng của vua bằng một hành lang. Đây là nơi lưu trữ các thánh tích, trước kia được dành riêng cho hoàng gia. Các ô cửa kính màu của gian giữa nhà thờ cao tới 15,35 mét, rộng 4,70 mét. Các cửa kính hậu cung cao 13,45 mét, rộng 2,10 mét. Những cửa kính màu này thể hiện các trích đoạn trong Kinh Thánh.
Được thực hiện trong 6 năm, tới năm 1248 công trình hoàn thành. Trong thời gian xây dựng, các thánh tích được lưu trữ ở nhà thờ nhỏ của lâu đài Vincennes. Tác giả có lẽ là kiến trúc sư Pierre de Montreuil, người cũng tham gia công trình nhà thờ Đức Bà và tu viện Saint-Denis. Phí tổn xây dựng Sainte-Chapelle là 32.000 livre, tiền Paris khi đó. Vào cuối thế kỷ 15, trong khoảng từ năm 1485 tới 1498, ô cửa kính lớn hình hoa hồng ở phía Tây được xây dựng lại dưới thời vua Charles VIII.
Vào thời kỳ Cách mạng Pháp, nhà thờ Sainte-Chapelle bị hư hại nặng nề. Các tác phẩm điêu khắc của nhà thờ bị phá hủy. Một số giữ được ngày nay trưng bày ở bảo tàng Cluny và bảo tàng Công trình kiến trúc Pháp. Sang thế kỷ 19, nhà thờ Sainte-Chapelle được hai kiến trúc sư Jacques-Félix Duban và Jean-Baptiste Lassus trùng tu vào năm 1837. Tới năm 1857, kiến trúc sư Emile Boeswillwald hoàn thành công việc sửa chữa nhà thờ Sainte-Chapelle.
Nhà hát Opéra Garnier
Palais Garnier là một nhà hát opera với 1.979 chỗ ngồi, được xây dựng từ năm 1861 đến năm 1875 cho đoàn Opera Paris. Ban đầu, nhà hát được gọi là Salle des Capucines, do vị trí của tòa nhà là nằm tại đại lộ des Capucines ở quận 9 của Paris, nhưng chẳng bao lâu thì công trình mang tên Palais Garnier, nhằm công nhận sự sang trọng và tôn vinh vị kiến trúc sư của tòa nhà, Charles Garnier. Nhà hát cũng thường được gọi là Opéra Garnier và trong lịch sử thì còn có thêm tên gọi là Opéra de Paris hoặc đơn giản chỉ là Opéra, vì đây là tòa nhà chính của đoàn Opera Paris và công trình cũng liên quan đến đoàn Paris Opera Ballet đến trước năm 1989, khi rạp Opéra Bastille mở cửa tại Place de la Bastille. Đoàn Paris Opera bây giờ chủ yếu sử dụng nhà hát Palais Garnier cho trình diễn ballet.
Một phần sự nổi tiếng của công trình này đến từ cuốn tiểu thuyết lừng danh Bóng ma trong nhà hát năm 1910 của Gaston Leroux và đặc biệt là trong những chuyển thể sau này như ở các bộ phim và vở nhạc kịch nổi tiếng năm 1986. Với tổng chi phí là 33 triệu franc, đây là tòa nhà tốn kém nhất được xây dựng dưới Đệ Nhị Đế chế. Một yếu tố khác góp danh tiếng cho nhà hát là, trong số các tòa nhà được xây dựng ở Paris dưới thời Đệ nhị Đế chế, nhà hát này là tòa nhà duy nhất được thừa nhận là “một kiệt tác đỉnh cao”. Tuy nhiên, không đồng tình với quan điểm này, kiến trúc sư người Pháp thế kỷ 20 Le Corbusier từng mô tả tòa nhà là “một thứ nghệ thuật dối trá” và cho rằng “phong cách Garnier chỉ đáng trang trí cho một ngôi mộ”.
Palais Garnier cũng là nơi “cư ngụ” của Bibliothèque-Musée de l’Opéra de Paris, mặc dù bây giờ Bảo tàng này không còn được quản lý bởi nhà hát và là một phần của Thư viện Quốc gia Pháp. Bảo tàng cũng là một phần trong các tour tham quan Palais Garnier.
Nhà hát được xây dựng theo phong cách “Napoléon III”, giống với những gì Garnier đã nói với Hoàng hậu Eugenie. Phong cách Napoléon III đậm chất chiết trung và vay mượn từ nhiều yếu tố lịch sử; nhà hát opera là sự kết hợp hài hòa và khéo léo của các yếu tố đến từ Baroque, chủ nghĩa cổ điển của Palladio, và kiến trúc thời Phục hưng. Phong cách này được kết hợp với phép đối xứng trục cùng với các kỹ thuật và vật liệu hiện đại, bao gồm cả việc sử dụng khung sắt, giống như các công trình Napoleon III khác đi tiên phong trước đó, chẳng hạn như Thư viện Quốc gia Pháp và các hội chợ ở Les Halles.
Mặt tiền và phần nội thất bám sát theo nguyên lý trong phong cách Napoléon III: không có không gian nào là không được trang trí. Garnier đã sử dụng cách trang trí đa sắc, tức là dùng một loạt các màu sắc khác nhau, để tạo nên hiệu ứng choáng ngợp. HIệu ứng này đạt được thông qua sử dụng các vật liệu trang trí khác nhau như đá cẩm thạch, đá, đá pocfia cùng với đồng mạ vàng.
Nhà thờ Đức Bà Paris
Nhà thờ Đức Bà Paris là nhà thờ chính tòa, nơi đặt ngai tòa giám mục của Tổng giáo phận Paris, tọa lạc trên đảo Île de la Cité của thành phố Paris, Pháp. Đây là một nhà thờ Công giáo tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Gothic, nhưng việc sử dụng sáng tạo của mái cong kiểu vòm có sườn và trụ bay, cửa sổ bông gió và kính màu ghép khổng lồ đầy màu sắc kết hợp chủ nghĩa tự nhiên và phong phú của trang trí điêu khắc làm cho nó khác biệt với phong cách kiến trúc Roman trước đó.
Nhà thờ được bắt đầu khởi công vào năm 1160 dưới thời Tổng giám mục Maurice de Sully, phần lớn công trình được hoàn thành vào năm 1260, mặc dù nó đã được tu sửa thường xuyên trong các thế kỷ về sau. Vào những năm 1790, Nhà thờ Đức Bà bị mạo phạm bởi cuộc Cách mạng Pháp; phần lớn hình ảnh tôn giáo của nó đã bị hư hại hoặc bị phá hủy. Năm 1804, nhà thờ là nơi đăng quang của Napoléon I với tư cách là Hoàng đế của Pháp, và chứng kiến lễ rửa tội của Henri, Bá tước Chambord vào năm 1821 và đám tang của một số tổng thống của Cộng hòa Pháp thứ ba.
Sự quan tâm phổ biến đối với nhà thờ nở rộ ngay sau khi xuất bản, vào năm 1831, cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo. Điều này đã dẫn đến một dự án phục hồi lớn giữa năm 1844 và 1864, được giám sát bởi Eugène Viollet-le-Duc, người đã thêm vào ngọn tháp biểu tượng của nhà thờ. Giải phóng Paris đã được tổ chức tại Notre-Dame vào năm 1944 với tiếng hát của Magnificat. Bắt đầu từ năm 1963, mặt tiền của nhà thờ đã được dọn sạch hàng thế kỷ của bồ hóng và bụi bẩn. Một dự án làm sạch và phục hồi khác được thực hiện từ năm 1991 đến năm 2000.
Là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Paris, Notre-Dame chứa thánh đường của Tổng giám mục Paris. 12 triệu người đến thăm Notre-Dame hàng năm, làm cho địa điểm này trở thành di tích được ghé thăm nhiều nhất ở Paris.
Trong khi đang tiến hành cải tạo và phục hồi, mái nhà thờ Đức Bà đã bốc cháy vào tối ngày 15 tháng 4 năm 2019. Đốt cháy trong khoảng 15 giờ, nhà thờ bị hư hại nghiêm trọng, bao gồm cả việc phá hủy ngọn lửa và phần lớn mái nhà trên trần nhà bằng đá. Các lính cứu hỏa đã có thể cứu mặt tiền, tháp, tường, trụ, cơ quan đường ống và cửa sổ kính màu. Những bức tượng trên ngọn lửa đã được gỡ bỏ để làm sạch và các di tích đã được giải cứu trong vụ cháy, nhưng các phần của trần đá bị sụp đổ. Điều tra đầu tiên chỉ ra rằng cấu trúc vẫn cơ bản là âm thanh. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố rằng Notre-Dame sẽ được xây dựng lại, nhưng thời gian cần thiết để làm điều này hiện không chắc chắn.
Công trình tôn giáo đầu tiên có thể đã được xây dựng bên bờ trái sông Seine, cạnh Val-de-Grâce ngày nay. Nhưng sử sách đã không ghi lại được chính xác về nhà thờ lớn đầu tiên của Paris cũng như các nhà thờ sau đó. Theo những dấu tích, trên đảo Île de la Cité từng có một ngôi đền, rồi được thay thế bởi một nhà thờ Cơ Đốc giáo mang tên Saint-Etienne. Nhưng không thể biết nhà thờ này được xây dựng vào thế kỷ 4 rồi được tu sửa sau đó hay xây vào thế kỷ 7 trên các dấu tích cũ. Một điều chắc chắn rằng Saint-Etienne là một giáo đường rất lớn và giống với các nhà thờ cổ khác của La Mã hay Ravenna. Bên trong, năm gian được chia cách bởi những cột lớn, tường được trang trí ghép mảnh. Phía Bắc nhà thờ còn có nhà rửa tội mang tên Saint-Jean le Rond.
Bên bờ trái sông Seine, tu viện Saint-Germain-des-Prés được xây khoảng thập niên 540. Nhưng vào thế kỷ 9 và 10, những người Normand thường xuyên tấn công Paris và đã phá hủy tu viện Saint-Germain-des-Prés. Tu viện mới được xây lại trong khoảng 990 tới 1021.
Cầu Pont des Arts
Pont des Arts hay passerelle des Arts là một cây cầu đi bộ bắc qua sông Seine tại Paris, Pháp. Pont des Arts nối liền Institut de France và sân vuông của Bảo tàng Louvre.
Đây là cây cầu bằng kim loại đầu tiên được xây dựng tại Paris, nó là một trong những công trình được xây dựng tại thủ đô trong thời gian Napoléon Bonaparte làm Tổng tài. Các kỹ sư Louis-Alexandre de Cessart và Jacques Dillon được giao thiết kế và phụ trách thi công cây cầu mới này, họ dự kiến xây dựng một cây cầu có dạng một khu vườn treo, với các cây nhỏ, các bồn hoa và ghế dài. Vào năm 1852, sau khi kè Conti mở rộng, hai nhịp ở bờ trái được thu lại còn một nhịp.
Năm 1976, tổng thanh tra của Sở Cầu đường Pháp đã ghi nhận tình trạng yếu ớt của cây cầu, phần lớn là do hậu quả của những cuộc ném bom năm 1918 và 1944 cũng như những lần va chạm của tàu thuyền vào cầu năm 1961 và 1970. Năm 1977 việc lưu thông qua cầu được chấm dứt, 2 năm sau đó 1 đoạn cầu dài 60 mét đã đổ sập sau khi va chạm với một chiếc sà lan.
Từ năm 1981 đến năm 1984, pont des Arts mới được xây dựng theo bản thiết kế của Louis Arretche, theo đó hình dáng của cây cầu mới gần như giống hệt cây cầu cũ, chỉ có số nhịp được giảm từ 9 xuống 7 để tạo sự thẳng hàng với 7 nhịp của pont Neuf. Cây cầu mới được thị trưởng Paris Jacques Chirac cắt băng khánh thành ngày 27 tháng 6 năm 1984.
Cây cầu đi bộ mới này đôi khi được sử dụng để triển lãm, nó cũng là nơi thường xuyên thu hút các họa sĩ, nhà nhiếp ảnh và những người dân Paris tổ chức píc-níc.
Mãi cho đến năm 2008, Pont des Arts bắt đầu được biết đến với tên gọi là Cầu khoá tình yêu. Nguyên nhân là do kể từ năm 2008, các du khách từ khắp nơi trên thế giới đã móc những chiếc khoá khắc tên đôi tình nhân vào thành cầu. Chính vì vậy khi dạo bước qua đây du khách dễ dàng cảm nhận hơi thở tình yêu muôn màu muôn vẻ qua từng ổ khoá được các cặp đôi móc vào thành cầu rồi ném chìa khoá xuống lòng sông mang theo niềm hy vọng về một tình yêu trường tồn vĩnh cửu.
Cầu cạn Millau
Cầu cạn Millau là một cây cầu cạn dây văng bắc qua thung lũng sông Tarn ở Millau, tỉnh Aveyron, miền nam nước Pháp.
Cầu do kiến trúc sư người Anh Norman Foster và kỹ sư cầu người Pháp Michel Virlogeux thiết kế. Đây là cây cầu từng được xem là cao nhất thế giới và nay vẫn là cầu có cột tháp trụ cầu cao nhất thế giới. Nếu tính chiều cao của mặt đường trên cầu so với mặt đất phía dưới là 270 m, hiện nay (2017) là cầu cao thứ 22 trên thế giới, một phần vì cầu xây ở dưới đáy thung lũng, nhưng là cầu cao nhất thế giới. Điểm cao nhất của cầu, tính từ chân trụ tháp cao nhất P2 tới đỉnh cột chống dây văng là 343m, là cấu trúc cao nhất ở Pháp, cao hơn tháp Eiffel, cao tới mức cây cầu nằm lượn trên những đám mây tại thung lũng Tarn, rộng 2,5 km, sâu 250m. Tốc độ gió thổi qua cầu có thể lên tới hơn 200 km/h. Cây cầu này là một phần của trục giao thông đường bộ A75-A71 từ Paris đến Béziers. Cầu được khởi công vào tháng 10 năm 2001 và khánh thành vào ngày 14 tháng 12 năm 2004, lễ thông xe được tổ chức hai ngày sau đó.
Quá trình xây dựng cầu cực kỳ khó khăn và phức tạp khi các kỹ sư và công nhân phải chiến đấu với các yếu tố như đất lở, gió giật cao trên 130 km/h và những cơn bão lớn. Thậm chí tác giả của cây cầu, kỹ sư Michel Virlogeux đã thổ lộ “khi tôi đưa ra bản thiết kế đầu tiên về cây cầu cho nhà chức trách, họ nghĩ rằng tôi bị điên”. Millau còn được xem như một trong những công trình xây dựng vĩ đại nhất mọi thời đại. Cây cầu cũng đồng thời nhận giải thưởng dành cho Công trình nổi bật nhất năm 2006 của hiệp hội kỹ sư Cầu đường và Kết cấu quốc tế.
Việc xây dựng cầu này đã phá 3 kỷ lục thế giới:
- Cột tháp trụ cầu cao nhất thế giới: Cột tháp P2 và P3, cao lần lượt 244,96m và 221,05m, phá kỷ lục của Pháp được lập trước đó bởi các cầu cạn Tulle và Verrières (141 m), và kỷ lục thế giới trước đó do Cầu cạn Kochertal nắm giữ, có chiều cao 181m vào thời điểm nó cao nhất;
- Cột cao nhất thế giới: đỉnh của cột tháp P2 cao 343 m.
- Sàn cầu cao cạn cao nhất thế giới, cao 270 m trên sông Tarn tại điểm cao nhất. Nó gần như gấp đôi chiều cao của cầu cao nhất trước đó ở châu Âu, Europabrücke ở Áo. Nó hơi cao hơn Cầu hẻm núi sông New ở Tây Virginia ở Hoa Kỳ, với chiều cao 267m trên Sông New. Chỉ có sàn Cầu hẻm núi Royal ở Colorado, Hoa Kỳ là cao hơn với độ cao 321 m, và được coi là cầu cao nhất thế giới.
Năm 1980 Pháp xây dựng đường cao tốc nối trực tiếp Paris với Tây Ban Nha, đồng thời nối miền bắc nước Pháp với các tỉnh ở ven biển Địa Trung Hải. Con đường này đi qua miền nông thôn nằm giữa nước Pháp và bị chặn lại ở thung lũng Tarn, thung lũng sâu nhất nước Pháp. Để vượt qua thung lũng Tarn thì phải đi vòng tới thị trấn Millau, nút thắt cổ chai về giao thông của Pháp, đặc biệt trong những tháng hè. Điều đó dẫn đến nhu cầu cấp thiết về việc xây dựng một cây cầu bắc qua thung lũng Tarn.
Việc xây dựng cầu Millau, thay vì phải đi vòng qua thung lũng và thị trấn Millau, đã giúp tiết kiệm 1 tiếng chạy xe trong điều kiện giao thông thuận lợi, thậm chí có thể lên tới 5 tiếng đồng hồ so với tình trạng tắc nghẽn trước đó.
Lâu đài Haut-Koenigsbourg
Lâu đài Haut-Koenigsbourg là một lâu đài cổ được xây từ thế kỷ 12, đã trải qua đợt trùng tu lớn cũng như nhiều lần bị phá hủy trong suốt lịch sử. Lâu đài nằm trong vùng Orschwiller ở Pháp ngày nay đã trở thành một địa điểm du lịch lớn, thu hút hơn 500.000 du khách mỗi năm.
Kể từ khi được hoàn thành, lâu đài Haut-Koenigsbourg đã trở thành một chứng nhân lịch sử cho những xung đột của châu Âu, sự cạnh tranh giữa các lãnh chúa, vua và hoàng đế.
Mặc dù đã xây dựng lại quy mô lớn vào thế kỷ 19, lâu đài vẫn giữ như bản sao của phiên bản gốc và tại vị cùng một địa điểm, Haut-Koenigsbourg mang lại những ấn tượng cho du khách về về cuộc sống lâu đài trong thời trung cổ.
Sau khi bị phá hủy trong chiến tranh, Wilhelm II đã xây dựng lại vào năm 1899 trong lúc vùng Alsace là một phần lãnh thổ của Đức.
Rất nhiều vũ khí như cung, giáo, kiếm và các thứ khác được lưu trữ như những bộ sưu tập trong phòng vũ khí, cùng với bức tranh tháp của thời kỳ Phục Hưng. Có một bộ sưu tập vũ khí đầy ấn tượng từ thời Trung Cổ ở tầng hầm với nỏ, tất cả các loại kiếm và áo giáp.
- Địa chỉ: 67600 Orschwiller, Alsace, Pháp
- Giờ mở cửa: Tháng 1, Tháng 2, Tháng 11 và Tháng 9: 9:30 – 12:00 sau đó 13:00 – 16:30
Tháng 3 và tháng 9:30 – 17:00
Tháng 4, tháng 5 và tháng 9: 15 – 17:15
Tháng Sáu, Tháng Bảy và Tháng Tám, 9:15 – 18:00 - Vé: 9 € cho từ 6 đến 17 tuổi
- 5 € cho 6 năm hoặc dưới Miễn phí
Lưu ý: Ngày Chủ nhật đầu tiên từ tháng 11 đến tháng 3 được vào cổng miễn phí
Lâu đài Chambord
Lâu đài Chambord hay Lâu đài Hoàng gia tại Chambord, được xây dựng ở Loir-et-Cher, Pháp là một trong các lâu đài dễ nhận diện nhất trên thế giới vì phong cách kiến trúc Phục hưng Pháp rất riêng biệt của nó kết hợp các hình thức truyền thống Pháp thời trung cổ với cấu trúc Phục hưng cổ điển.
Lâu đài được xây dựng bởi vua François I và không bao giờ được hoàn thành, một phần để được gần người tình của mình Comtesse de Thoury, Claude Rohan, vợ của Julien de Clermont, một thành viên của một gia đình rất quan trọng của Pháp, có Domaine, lâu đài de Muides, liền kề.
Lâu đài Chambord là lâu đài lớn nhất ở thung lũng Loire, nó được xây dựng để phục vụ như là một nơi nghỉ săn bắn cho François I, người duy trì nhà ở hoàng gia của mình tại lâu đài Blois và lâu đài Amboise. Bản thiết kế ban đầu của lâu đài Chambord là do (mặc dù vẫn còn những nghi ngờ) Domenico da Cortona thực hiện.
Lâu đài Chambord được thay đổi đáng kể trong thời gian hai mươi năm xây dựng, (1519-1547), trong thời gian đó, nó đã được giám sát trên địa điểm Pierre Nepveu. Với việc gần hoàn thành lâu đài, François cho thấy biểu tượng khổng lồ của ông về sự giàu có và quyền lực.
Ga Lyon Saint-Exupéry
Ga Saint-Exupéry TGV là một ga đường sắt gần Lyon, Pháp, nối trực tiếp với Sân bay Lyon-Saint Exupéry. Nhà ga này được xây dựng thêm vào hệ thống sân bay phục vụ tuyến tàu cao tốc TGV LGV Rhône-Alpes, một phần của tuyến chính chạy từ Paris đến Marseille. Nó nằm cách phía đông trung tâm thành phố Lyon gần 20 km.
Ga Saint-Exupéry do Santiago Calatrava thiết kế với chi phí xây dựng 750 triệu Francs và khánh thành ngày 3 tháng 7 năm 1994, cùng thời gian với tuyến tàu cao tốc đến Saint-Marcel-lès-Valence. Tòa nhà được xây dựng hầu hết bằng bê tông và thép.
Nhà ga có 6 track nằm lõm xuống. 2 track ở giữa nằm riên biệt cho phép các tàu chạy qua với vận tốc tối đa (300 km/h). Both sets of two tracks have platforms 500 m long. Về phía tây còn một mảnh đất bên cạnh dự trữ trong việc mở rộng trong tương lai.
Nhà ga này được kết nối với sân bay Lyon-Saint Exupéry bằng một cầu bộ hành có trang bị thang bộ hành. Sân bay này trong lịch sử từng là nơi có một nhà ga phục vụ tàu cao tốc, nhưng phần lớn hành khách ít sử dụng nó mà họ chủ yếu sử dụng ga Lyon-Perrache và Lyon Part-Dieu.
Do thiếu sự kết nối với hệ thống giao thông nội ô Lyon nên nhà ga này hiện có tần suất sử dụng thấp. Các chuyến đến từ trạm trung chuyển Rhônexpress (khánh thành tháng 8 năm 2010) không thể thay đổi tình trạng này do cư dân Lyon sẽ phải tìm cách đi lại dễ dàng hơn (và rẻ hơn) để đến các nhà ga trong thành phố. Yếu tố thuận lợi chính của nhà ga này là các hành khác đến bằng đường hàng không có thể đi về phía đông dễ dàng hơn.
Trung tâm Pompidou
Trung tâm nghệ thuật và văn hóa quốc gia Georges-Pompidou là một trung tâm văn hóa và bảo tàng lớn nằm ở khu Beaubourg thuộc quận 4, Paris, Pháp, gần Les Halles, rue Montorgueil, và Marais. Trung tâm được thiết kế theo phong cách kiến trúc công nghệ cao bởi nhóm kiến trúc của Richard Rogers, Su Rogers, Renzo Piano, cùng với Gianfranco Franchini.
National Geographic mô tả phản ứng đối với thiết kế là “yêu từ cái nhìn thứ hai.” Một bài báo trên Le Figaro tuyên bố “Paris có con quái vật của riêng mình, giống như ở Loch Ness.” Nhưng hai thập kỷ sau, khi đưa tin về việc Rogers giành Giải Pritzker năm 2007, The New York Times lưu ý rằng thiết kế của Trung tâm đã “đảo lộn thế giới kiến trúc” và điều đó “Ông Rogers nổi tiếng là một biểu tượng công nghệ cao với việc hoàn thành Trung tâm Pompidou năm 1977, với bộ xương lộ ra là các ống sáng màu dành cho các hệ thống cơ khí”. Hội đồng giám khảo Pritzker cho biết Pompidou đã “cách mạng hóa các bảo tàng, biến những gì từng là di tích ưu tú thành những địa điểm giao lưu văn hóa và xã hội phổ biến, dệt thành trái tim của thành phố.”
Bản thiết kế của hai kiến trúc sư Piano và Rogers là bản vẽ duy nhất đặt tòa nhà theo trục Bắc – Nam, đảm bảo quy hoạch chung của khu vực. Thiết kế này cũng cho phép dành một khoảng không lớn cho “piazza”.
Tòa nhà chính của trung tâm Pompidou có 8 tầng, mỗi tầng có diện tích sàn 7.500 m², ngoài ra còn có 2 tầng hầm. Tòa nhà trị giá 993 triệu franc Pháp. Công việc cải tạo được tiến hành từ tháng 10 năm 1996 đến tháng 1 năm 2000 được hoàn thành với kinh phí 576 triệu franc.
Các hệ thống ống này được sơn màu theo chức năng, các ống điều hòa có màu xanh da trời, các ống nước có màu xanh lá cây còn các đường ống điện có màu vàng. Riêng hệ thống thang trời được đặt trong một ống màu đỏ. Các ống màu trắng là hệ thống thông gió của tầng ngầm. Vì kiến trúc đặc biệt này nên trung tâm Pompidou có rất nhiều biệt danh như “Nhà thờ Đức Bà ống” (Notre-Dame de la Tuyauterie) hay “Pompidolium” (Cung cứu hỏa, xuất phát từ pompier có nghĩa là lính cứu hỏa). Những người chỉ trích thiết kế này thường gọi Pompidou là “nhà kho nghệ thuật” (hangar de l’art), “nhà máy ga” (usine à gaz) hay “nhà máy lọc dầu” (raffinerie de pétrole).
Khải Hoàn Môn
Khải Hoàn Môn hay đúng hơn Bắc đẩu Tinh tú Hoàn môn là một công trình ở Paris, một trong những biểu tượng lịch sử nổi tiếng của nước Pháp. Nằm giữa quảng trường Étoile (Charles-de-Gaulle), vị trí của Khải Hoàn Môn là điểm cuối của đại lộ Champs-Elysées, khu vực tập trung khách du lịch của thành phố. Vốn là công trình do Napoléon cho xây dựng vào năm 1806 để vinh danh quân đội Đệ Nhất Đế chế Pháp, nhưng Khải Hoàn Môn được hoàn thành vào năm 1836, dưới Nền quân chủ Tháng bảy.
Ngày nay, Khải Hoàn Môn là một trong những công trình nổi tiếng nhất của Paris và cùng với Champs-Elysées là địa điểm tổ chức các lễ hội, sự kiện hay ăn mừng các chiến thắng thể thao. Với 1.330.738 lượt khách mua vé viếng thăm, Khải Hoàn Môn đứng thứ 10 trong các công trình thu hút nhất của Paris.
Đầu thế kỷ 17, vị trí của Khải Hoàn Môn thuộc ngoại ô của Paris. Năm 1616, hoàng hậu Marie de Médicis quyết định mở một con đường dài có trồng cây hai bên để đi dạo, chính là đại lộ Champs-Elysées ngày nay. Trong thế kỷ 17, khu vực Champs-Elysées dần được đô thị hóa và quảng trường Étoile được tạo ra vào năm 1670, nhưng vẫn nằm ngoài bức tường thành do Louis XIII xây từ 1633 đến 1636. Năm 1787, bức tường Thuế quan được xây dựng để kiểm soát hàng hóa vào Paris và đi qua quảng trường Étoile. Étoile được kiến trúc sư Claude Nicolas Ledoux bố trí là một trong những trạm thu thuế. Quảng trường Étoile khi đó là giao lộ của năm con đường lớn.
Ngày này, Khải Hoàn Môn là một trong những công trình nổi tiếng nhất của thành phố, khu vực Champs-élysées là điểm hấp dẫn du khách và cũng là địa điểm tổ chức các lễ hội, chào đón năm mới. Cơ quan quản lý Khải Hoàn Môn là Trung tâm công trình quốc gia.
Với vị trí cuối Champs-Elysées, một năm sẽ có hai lần, khoảng 10 tháng 5 và 1 tháng 8, xảy ra hiện tượng: đứng giữa đại lộ, nhìn thấy Mặt Trời lặn ngang qua Khải Hoàn Môn trong vài phút. Vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, hiện tượng này xảy ra đồng thời với nhật thực. Đã có gần 200 ngàn người tới đây để chứng kiến. Tương tự, nhìn từ hướng ngược lại, phía Porte Maillot, hiện tượng này xảy ra vào khoảng 7 tháng 2 và 4 tháng 11.
Khải Hoàn Môn có kích thước mặt đứng gần hình vuông, chiều rộng 45 mét, cao 50 mét, nằm trên quảng trường có đường kính 240 mét. Công trình là tổng thể điêu khắc lớn nhất của Pháp trong thế kỷ 19. Các mặt của công trình được trang trí nhiều bức phù điêu, tượng đài và khắc tên các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn Cách mạng và Đế chế.
Bốn tác phẩm điêu khắc lớn nhất là: Xuất quân 1792 và Khải hoàn 1810 phía Champs-Elysées, Kháng chiến 1814 và Hòa bình 1815 phía Grande-Armée. Trong đó Xuất quân, tên đầy đủ Xuất quân của các chiến sĩ tình nguyện 1792, tức La Marseillaise nổi tiếng hơn cả.
Viện bảo tàng Louvre
Louvre là một viện bảo tàng nghệ thuật và di tích lịch sử tại Paris, Pháp. Có vị trí ở trung tâm lịch sử thành phố, bên bờ sông Seine, Viện bảo tàng Louvre vốn là một pháo đài được vua Philippe Auguste cho xây dựng vào năm 1190. Cuối thế kỷ XIV, dưới thời Charles V, Viện bảo tàng Louvre trở thành cung điện hoàng gia và sau đó tiếp tục được mở rộng qua các triều đại. Từ năm 1672, khi triều đình Pháp chuyển về lâu đài Versailles, bộ sưu tập hoàng gia được lưu trữ tại Louvre.
Những hiện vật ban đầu của Louvre chủ yếu từ bộ sưu tập hoàng gia và tài sản của giáo hội bị tịch thu trong thời kỳ cách mạng. Dưới thời Đệ Nhất Đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoléon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ giá trị được chuyển về Louvre.
Nhưng sau thất bại của quân đội Pháp trong trận Waterloo, phần lớn các hiện vật này đã trở về với những quốc gia chủ nhân cũ. Bộ sưu tập của Louvre tăng trở lại dưới thời Bourbon phục hoàng và kể từ Đệ Tam cộng hoà, bên cạnh những hiện vật mua lại, bảo tàng còn liên tục nhận được các di vật và tặng phẩm cá nhân.
Ngày nay, Louvre là một trong những viện bảo tàng nổi tiếng nhất thế giới, nơi trưng bày các hiện vật về những nền văn minh cổ, nghệ thuật Hồi giáo và nghệ thuật châu Âu từ thế kỷ XIII cho tới giữa thế kỷ XIX. Với diện tích 210 ngàn mét vuông, Louvre trưng bày 35.000 trên tổng số 380.000 hiện vật. Trong bộ sưu tập của bảo tàng Louvre hiện nay có những tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của lịch sử nghệ thuật, như Tượng thần Vệ Nữ, Tượng thần chiến thắng Samothrace, Mona Lisa, Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân, cùng các hiện vật giá trị về những nền văn minh cổ, như phiến đá ghi bộ luật Hammurabi, tấm bia Mesha.
Với kiến trúc của điện hoàng gia, vị trí trung tâm Paris và các hiện vật giá trị, Louvre là một trong những bảo tàng nổi tiếng và thu hút nhất thế giới. Năm 2006, Louvre là địa điểm thu phí được viếng thăm nhiều nhất Paris. Lượng khách của Louvre đứng trên tháp Eiffel, chỉ thua hai địa điểm tự do là nhà thờ Đức Bà và nhà thờ Sacré-Cœur.
Đồng thời năm 2007, Louvre cũng là bảo tàng thu hút nhất thế giới, vượt hơn 2 triệu khách so với Bảo tàng Anh ở vị trí thứ hai. Trong hai năm 2006 và 2007, Louvre đều đạt khoảng 8,3 triệu khách viếng thăm. Trong số đó, 91% khách thăm khu vực trưng bày thường xuyên, 8% thăm các triển lãm, phần còn lại là lượng khán giả của trung tâm nghe nhìn và bảo tàng Eugène Delacroix. Theo thống kê năm 2006, lượng khách nữ giới cao hơn, chiếm 53%. Điều này cũng tương tự như năm 2005. Lượng khách quốc tịch Pháp chiếm 33% và trong số khách nước ngoài, người Mỹ chiếm số đông nhất.
Blog’s Nguyễn Kiều Việt Như, tổng hợp