Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực Nam của Việt Nam.
– KHÁM PHÁ KIẾN TRÚC VIỆT NAM – |
Bạc Liêu từng là vùng đất có một vị trí quan trọng trong chiến lược khai thác và xây dựng vùng Đồng bằng sông Cửu Long của người Pháp, được người Pháp lên kế hoạch xây dựng thành trung tâm hành chính của miền Tây, đồng thời đầu tư nhiều tiền của xây cất dinh thự và công sở tại đây. Bạc Liêu cũng là vùng đất có nhiều người Hoa sinh sống qua câu ca dao.
“Bạc Liêu là xứ cơ cầu
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu.”
Thế mạnh du lịch Bạc Liêu là du lịch sinh thái, du lịch biển với những cảnh quan thiên nhiên độc đáo như vườn chim, vườn nhãn… đồng thời với những di tích lịch sử – văn hoá như: tháp cổ Vĩnh Hưng, Nọc Nạng, đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, hệ thống đình, chùa… Sự hấp dẫn của du lịch Bạc Liêu còn ở những nét độc đáo trong ẩm thực, trang phục, lễ hội, dân tộc Việt và một bộ phận dân cư người Khmer, người Hoa.

Kiến trúc Bạc Liêu vô cùng đa dạng với nhiều phong cách kiến trúc Khmer và kiến trúc nam bộ, được thể hiện qua các công trình cũng như các di tích trên toàn tỉnh Bạc Liêu. Bên cạnh những di tích vật thể thì Bạc Liêu còn độc đáo bởi những giá trị văn hóa phi vật thể như các lễ hội, phong tục, tập quán cổ truyền. Đó là các lễ hội Kỳ yên, lễ hội Phật giáo Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn; lễ hội Chôl Chnăm Thmây, Oóc-om-bóc, Đôn-ta của người Khmer; lễ Giỗ tổ cổ nhạc, lễ cúng Thanh minh…

Bạc Liêu là một trong những cái nôi của đờn ca tài tử Nam bộ. Đây là nơi sinh ra các nhạc sư, nghệ nhân, nhiều ca sĩ, nghệ sĩ lừng danh… Và nói đến đất nước – con người Bạc Liêu, không thể không nhắc đến những trang sử vẻ vang của hai lần giành lại chính quyền từ tay giặc không đổ máu, những cuộc nổi dậy của nông dân Ninh Thạnh Lợi, nông dân Nọc Nạng…Tất cả làm nên một Bạc Liêu với nhiều kỳ tích!
Nhà Thờ Tắc Sậy
Nhà thờ Tắc Sậy hay còn được gọi là nhà thờ Cha Diệp – Nhà thờ nổi tiếng nhất ở khu vực miền Tây. Đến với nhà thờ Tắc Sậy ngoài việc viếng thăm mộ phần của cha Trương Bửu Diệp thì mọi người có thể chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo của nhà thờ công giáo, một trong những nhà thờ đẹp nhất trong các tỉnh miền tây.
Theo những người lớn tuổi ở địa phương, tên gọi Tắc Sậy là do xưa kia có một con đường tắt nhỏ đi ngang qua nhà thờ, nằm giữa đám lau sậy, phát âm của người miền Nam, dần biến âm “tắt” thành “tắc”.

Nhà thờ Tắc Sậy được xem là một nhánh của họ đạo Bạc Liêu ngày xưa. Ban đầu nơi đây được Cha Jules DUCQUET một linh mục người Pháp đến truyền đạo. Sau đó Cha đã thành lập 4 họ đạo ở khu vực miền Tây trong đó có họ đạo Bạc Liêu.
Năm 1925, nhà thờ Tắc Sậy được thành lập. Tháng 8 năm 1926, cha Phaolô Trần Minh Kính được cử về làm cha xứ đầu tiên của nhà thờ. Đến tháng 3 năm 1930 thì cha Phanxico Trương Bửu Diệp về nhận nhiệm sở mới thay cha Kính. Trong thời gian ở đây, cha Diệp đã chuyển nhà thờ từ phía trong ra ngoài mặt tiền như vị trí hiện tại. Cha Diệp cũng là người có công to lớn trong việc hình thành và phát triển nhà thờ Tắc Sậy.
Nhà thờ Tắc Sậy – nơi gắn liền với một nhân vật nổi tiếng – cha Trương Bửu Diệp, vị linh mục được xem như một vị thánh bởi sự linh thiêng, thi ân giáng phúc cho những ai tin tưởng nguyện cầu.

Nhà thờ có kiến trúc lạ và độc đáo gồm có 3 tầng, tầng trệt là nơi để cho khách nghỉ ngơi, tầng 2 và 3 là nơi dâng thánh lễ với tiền sảnh rất rộng. Gian cung thánh là nơi thờ phượng cũng được trang trí bằng các loại gỗ quý được điêu khắc tinh vi càng khiến cho không khí linh thiêng nơi đây thêm trang trọng.
Nơi an nghỉ của cha Diệp có kiến trúc như một tòa nhà có ba nóc rộng lớn, nóc chính giữa có đồng hồ lớn tạo điểm nhấn cho tòa nhà. Được xây dựng theo kiến trúc Á Đông nhưng vẫn mang nét đẹp của văn hoá Việt. Công trình này mang hình dáng giống như các đền đình ngày xưa của người Việt nhưng đã được cách tân, đổi mới cho phù hợp.
Trung tâm hành hương Cha F.X Trương Bửu Diệp là công trình được xây sau các công trình trên. Toà nhà có quy mô khá lớn. Nơi đây là nơi lưu trữ những tư liệu về Cha Diệp. Tầng trệt của toà nhà là nơi bạn có thể ghé qua thăm quan. Ngoài ra ở đây còn có bán những món quà lưu niệm mà bạn có thể mua về làm quà cho người thân. Phía trên là các phòng ở phục vụ cho việc lưu trú của các khách hành hương. Nếu bạn cần xin khấn hay xin lễ thì có thể ghé qua đây để liên hệ với các Soeur ở đây. Hàng năm, đặc biệt là ngày 11 và 12 tháng 3, đông đảo người dân từ nhiều nơi đến hành hương và tham quan Thánh đường Tắc Sậy và phần mộ của Cha Diệp.
Chùa Ông Quan Đế Miếu
Đến với Bạc Liêu, phần lớn du khách đều không thể bỏ qua hành trình khám phá và chiêm ngưỡng những ngôi chùa cổ kính nổi tiếng tại đây. Trong đó không thể không nhắc đến Chùa Ông Quan Đế Miếu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Hoa ở Nam Bộ.
Với cộng đồng người Hoa họ rất tôn thờ vị hảo hán này nên nơi đâu cũng có miếu thờ. Ở thành phố Bạc Liêu, chùa Quan Đế trở thành địa điểm du lịch Bạc Liêu với kiến trúc đặc trưng truyền thống Trung Hoa.

Quan Đế Miếu còn được gọi với tên khác là chùa Ông tọa lạc tại đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường 2, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Chùa được xây dựng từ năm 1835 do ông chủ tô muối Châu Quai đứng ra vận động đóng góp. Miếu Quan Đế hiện là ngôi miếu lâu đời trên địa bàn thành phố Bạc Liêu.
Nơi đây còn giữ nhiều bức hoành phi lớn, trong số đó có một số bức được chạm khắc bắt mắt từ những năm 1865 – 1897. Ngoài ra tại chùa Quan Đế còn có một án thư quí giá được lưu truyền qua nhiều thế hệ.

Ghé thăm chùa Quan Đế du khách được tận mục sở thị những hiện vật quý giá như những chiếc chuông cổ, có giá trị to lớn về nghệ thuật và lịch sử được đúc từ thời nhà Thanh. Phần lớn sản phẩm ở chùa được làm tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc và vận chuyển sang nước ta.
Quan Đế vốn được dân gian phong thánh là biểu tượng cho 4 đức tính trung, hiếu, tiết, nghĩa, nên với người Hoa họ thờ tự Quan Công cũng là việc họ coi trọng chữ tín. Nên tại chùa Quan Đế đã thành nơi cầu khẩn và là nơi giao kèo làm ăn buôn bán với họ.
Hằng năm, tại chùa Quan Đế đều tổ chức lễ cúng vào ngày 24 tháng Sáu Âm lịch, đây cũng là lễ cúng quan trọng nhất. Ngày nay, chùa Quan Đế không chỉ dành riêng cho cộng đồng người Hoa mà với nhiều người Việt cũng xem đây là một điểm đến tâm linh, thường đến Bạc Liêu hành hương chiêm bái, cầu nguyện thuận lợi chuyện làm ăn, công danh, sự nghiệp, sức khỏe, hạnh phúc….
Quảng Trường Hùng Vương
Bạc Liêu là vùng đất hội tụ văn hóa của 3 dân tộc Kinh – Hoa – Khmer, và là cái nôi của đờn ca tài tử Nam Bộ, nổi tiếng với bản Dạ cổ hoài lang của cố nhạc sỹ Cao Văn Lầu. Đến Bạc Liêu du khách sẽ được tham quan chiêm ngưỡng các công trình văn hóa độc đáo mang vẻ đẹp rất riêng. Trong đó không thể không nhắc đến Quảng Trường Hùng Vương.
Quảng Trường Hùng Vương nằm trong khu trung tâm hành chính tỉnh, thuộc Phường 1, TP. Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu ngay tại mặt tiền các tuyến đường Nguyễn Tất Thành – Hùng Vương – Trần Huỳnh. Đây là một trong những quảng trường đẹp nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và được xem là một trong những điểm du lịch Bạc Liêu tiêu biểu.

Được khởi công xây dựng vào năm 2013 và chính thức đi vào hoạt động năm 2014. Đến nay Quảng trường Hùng Vương đã trở thành niềm tự hào của người dân Bạc Liêu. Quần thể kiến trúc Bạc Liêu độc đáo ở quảng trường đã giúp vùng đất giàu truyền thống lịch sử – văn hóa này ghi điểm trên bản đồ du lịch Miền Tây.
Nổi bật nhất là nhà hát Cao Văn Lầu thường gọi là “nhà hát 3 nón lá”. Trung tâm Triển lãm văn hóa – nghệ thuật và nhà hát Cao Văn Lầu ở Bạc Liêu thu hút nhiều du khách check-in bởi kiến trúc tại Bạc Liêu vô cùng độc đáo.
Chiều cao nón lá lớn nhất hơn 24 m, đường kính nón lá lớn nhất hơn 45 m. Hình ảnh 3 chiếc nón lá trong thiết kế của Trung tâm Triển lãm văn hóa – nghệ thuật và nhà hát Cao Văn Lầu thể hiện nhiều ý nghĩa.
Hình tượng đó gợi nhắc đến 3 miền Bắc, Trung, Nam của đất nước, 3 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa trên mảnh đất Bạc Liêu, thế kiềng 3 chân thể hiện sự đoàn kết “3 cây chụm lại nên hòn núi cao”, người cha, người mẹ và người con trong một gia đình.
Góp điểm nhấn quan trọng cho quảng trường Hùng Vương ở Bạc Liêu còn có biểu tượng cây đờn kìm cách điệu, được nâng đỡ trên 5 cánh sen lớn. Biểu tượng này thể hiện nét văn hóa đặc sắc của Bạc Liêu trong dòng chảy nghìn năm văn hiến của dân tộc. Hoa sen bung nở tượng trưng cho sự phát triển không ngừng của nghệ thuật Đờn ca tài tử nói riêng và văn hóa của Bạc Liêu nói chung.

Cây đờn kìm này đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận là cây đờn kìm lớn nhất Việt Nam với tổng chiều cao 18,6m, được dựng trên 5 cánh sen trong hồ nước hình ngôi sao 5 cánh. Bên cạnh đó, 3 khối tượng cao 9m, biểu trưng cho sự đoàn kết, gắn bó, chung sức chung lòng của cộng đồng ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cũng là một điểm nhấn của quảng trường. Trên 3 khối tượng này có khắc các nhóm số đánh dấu những mốc lịch sử quan trọng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bạc Liêu trong quá trình xây dựng và phát triển quê hương.
Trong quần thể các công trình kiến trúc của quảng trường Hùng Vương còn có đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, tượng đài sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm Mậu Thân (1968) và biểu tượng kết nghĩa Bạc Liêu – Ninh Bình.
Đây là những công trình mang giá trị lịch sử to lớn, khắc họa thời khắc lịch sử hào hùng của Đảng bộ và quân dân Bạc Liêu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện tấm lòng tri ân đối với các anh hùng liệt sĩ, góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, truyền thống lịch sử – văn hóa cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Quảng trường Hùng Vương đã trở thành địa điểm tổ chức các cuộc mít tinh, những sự kiện lớn của tỉnh, đồng thời là nơi vui chơi, giải trí cho người dân thành phố.
Tháp cổ Vĩnh Hưng
Tháp cổ Vĩnh Hưng tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu cách trung tâm thành phố khoảng 20 km. Theo quốc lộ 1A, từ Bạc Liêu hướng Cà Mau 5km, đến cầu Sập, rẽ theo lối đi chợ Vĩnh Hưng là đến tháp Vĩnh Hưng. Đây không chỉ là một kiến trúc Bạc Liêu thuộc nền văn hóa Óc – Eo còn sót lại duy nhất ở Tây Nam bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các nhà khảo cổ học còn thu được nhiều hiện vật hết sức quí giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quí … đánh dấu một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài (từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII sau công nguyên) của tháp cổ Vĩnh Hưng.

Năm 1917 Henri Parmentier đã đến khảo sát khu vực này và thông báo trong tập san của trường Viễn Đông Bắc Cổ ( Số XVII, tập 6 năm 1917 trang 48-49). Trong báo cáo này (dưới tên gọi là tháp Lục Hiền) ông thống kê một số hiện vật được phát hiện trong và ngoài tháp. Đặc biệt, trong số ấy có tấm bia tìm thấy trong ngôi chùa Phước Bửu Tự ở cạnh tháp khắc chữ Phạn, ghi rõ tháng Karhila, năm 814, tương ứng với năm 892 sau công nguyên, và tên của vua Yacovan-Man (thế kỷ thứ IX). Các nhà khảo cổ đã xác định tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên để thờ vị vua tên là Khmer Yacovar – Man.
Vào tháng 5/1990, các nhà khảo cổ thuộc Viện Khoa học xã hội TP. HCM (nay là Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ) phối hợp với Bảo tàng tỉnh Minh Hải đã đến khảo sát và đào một hố thám sát, phát hiện một số hiện vật như đầu tượng thần, minh văn, bàn nghiền, Linga – Yoni…
Tiếp tục hành trình làm sáng rõ giá trị của một di tích cấp quốc gia, cũng như nhằm phục vụ công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp di tích tháp Vĩnh Hưng, trong năm 2002 và tiếp sau đó là năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu khai quật xung quanh tháp. Những đợt khai quật này tiếp tục những việc như làm lộ diện chân móng tháp, giải quyết những vết tích chìm trong lòng đất để có những giải pháp trùng tu, tôn tạo ngôi tháp nhằm phát huy giá trị của di tích. Nhiều hiện vật có giá trị đã được phát hiện trong những đợt khảo sát như: tượng Nữ thần được tạc theo phong cách truyền thống tượng tròn Óc Eo Phù Nam, bàn tay phải của “Tượng thần”, một số Linga – Yoni, đồ gốm dùng trong sinh hoạt và đặc biệt là bộ tượng đồng được các nhà khảo cổ học đánh giá là bộ sưu tập tượng độc đáo, là “bảo vật quốc gia”, trong đó có một số tượng độc bản có giá trị rất cao.
Từ xa, trông ngôi tháp có khối hình trụ đứng sừng sững giữa rừng cây, với dáng vẻ cổ kính – một phần bị rong rêu phủ, còn lại nhiều chỗ gạch loang lỗ khuyến sâu vào gần bên trong lòng Tháp bởi thời gian dài chịu ảnh hưởng của mưa nắng. Tỉnh Bạc Liêu phải ra tận miền Đông tìm đất mang về nung thành những viên gạch để phục chế một phần phía trước đã bị hư hỏng.

Tháp cổ có kiến trúc khá đơn giản và mộc mạc trên một doi đất có diện tích khoảng 100m, cửa Tháp quay về hướng Tây, bình diện chân Tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6m và 6,9m. Chiều cao của Tháp là 8,2m (tính từ nền Tháp). Toàn bộ 03 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch. Tường của chân Tháp dày 1,8m, càng lên cao độ dày của tường càng mỏng, vách tường được dựng nghiêng dần lên phía đỉnh tạo thành vòm cuốn.
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, điều gì đã tạo nên một tháp cổ có niên đại hàng nghìn năm tuổi? Theo nhiều nhà khoa học, người Khơme cổ đã dùng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt, họ đã dùng một loại keo thực vật để kết dính các viên gạch với nhau, mà không cần dùng đến các chất liệu xây dựng như xi măng, hay vôi vữa như bây giờ. Tháp được xây bằng hai loại gạch có màu sắc khác nhau. Từ chân tháp đến độ cao 4m là gạch đỏ và từ 4m trở lên trên được dùng gạch trắng. Nhìn vào từ cửa chính là bộ Linga – Yoni tượng trưng cho âm dương hòa hợp được phục chế lại. Bộ Linga – Yoni nguyên gốc đang được gìn giữ tại bảo tàng.
Từ những giá trị độc đáo được ghi nhận, Tháp cổ Vĩnh Hưng đã được Bộ VH-TT (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1992.
Chùa Xiêm Cán
Bạc Liêu vùng đất không chỉ là cái nôi của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ mà còn có hệ thống di tích, văn hóa, kiến trúc tín ngưỡng và lễ hội truyền thống độc đáo của ba dân tộc Kinh – Hoa – Khmer. Trong đó, không thể không nhắc đến Chùa Xiêm Cán là một trong những ngôi chùa Khmer lớn và đẹp lộng lẫy nhất trong hệ thống chùa Khmer ở Nam bộ. Sự uy nghi và kiến trúc ở Bạc Liêu tuyệt đẹp của chùa Xiêm Cán luôn để lại ấn tượng khó quên trong lòng du khách.
Chùa Xiêm Cán nằm cách trung tâm thành phố Bạc Liêu khoảng chừng 7km về hướng Đông tại ấp Biển Đông B, xã Vĩnh Thạnh Đông. Đây là một tuyến đường kết nối nhiều điểm đến nổi tiếng như Vườn chim Bạc Liê, nhà Công tử Bạc Liêu. Từ trung tâm, bạn đi thẳng theo hướng đến Khu vui chơi Nhà Mát. Từ đây, bạn rẽ trái vào đường DT31 và chạy thẳng là đến chùa Xiêm Cán. Từ vị trí của chùa, du khách có thể tiếp tục đi thẳng để khám phá các điểm đến nổi tiếng ở vùng đất này như vườn nhãn cổ, cánh đồng điện gió,…

Dựa theo ghi chép trên bia đá được tạc bằng chữ Khmer cổ ở hai mặt trước và sau đặt bên phải chính điện; thì chùa Xiêm Cán được khởi công xây dựng vào ngày 7 tháng 5 dương lịch năm 1887. Tuy không phải là ngôi chùa Khmer cổ nhất ở khu vực này, nhưng Chùa Xiêm Cán luôn là điểm dừng chân của du khách mỗi khi đặt chân đến Bạc Liêu, chính bởi những đường nét hoa văn tinh xảo, lối kiến trúc Bạc Liêu độc đáo.
Sau hơn hai tháng thi công và hoàn thành, bà con trong phum sóc họp bàn rồi đến mới Pháp sư Thạch Mau (1829 – 1909); một người am hiểu kinh kệ, tinh thông phật pháp về làm trụ trị chùa.
Theo tâm tư nguyện vọng cũng như sự đề bạt chân thành của bà con. Pháp sư Thạch Mau về trụ trì chùa và trở thành vị trụ trì đầu tiên của chùa Xiêm Cán. Đến nay, ngôi chùa Khmer đẹp ở miền Tây này đã trải qua 9 đời trụ trì và một vài lần trùng tu, sửa chữa.
Thời gian sau, có một bộ phận người Hoa người gốc Triều Châu (Trung Quốc) đến định cư, vì tiếng Khmer khó đọc nên họ đã dịch từ Prét Chru sang Xiêm Cán (Xiêm Cán này là “giáp nước”, ý nói một ngôi chùa ngự trên một vùng đất ngay bên cạnh bãi bồi ven biển). Giải nghĩa cho điều ngày là do khi xưa chùa Xiêm Cán chỉ cách bờ biển khoảng 500m. Xong, do bờ biển Bạc Liêu là dòng biển bồi nên bây giờ khoảng cách từ chùa đến bờ biển gần 5km.
Chùa Xiêm Cán nói riêng và tất cả các ngôi chùa thuộc hệ thống chùa Khmer Nam Bộ nói chung đang mang đậm một dấu ấn kiến trúc Angkor Khmer – Campuchia. Tuy nhiên, do với những ngôi chùa khác trong cùng hệ thống thì chùa Xiêm Cán ở Bạc Liêu có phần nổi trội hơn về quy mô lẫn phong cách nghệ thuật.

Điều khác biệt của chùa Khmer với những ngôi chùa bình thường khác chính là sự tinh tế, tỉ mẩn trong từng vách từng, mái nhà và trụ cột. Có đi sâu vào khuôn viên bên trong và nhìn ngắm thật kỹ, bạn mới cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp mà chùa Xiêm Cán sở hữu.
Chùa là một tổng thể kiến trúc gồm nhiều hạng mục như: tường thành bao quanh, cổng tam quan, chính điện, sala, tháp chuông, cột trụ biểu, khu mộ tháp, nơi nghỉ ngơi của các sư, giảng đường … Tất cả các hạng mục đều thể hiện rõ phong cách Angkor Khmer truyền thống và đều quay về một hướng, đó là hướng Đông.
Ngay từ đằng xa, hình ảnh chùa đã hiện ra trong mắt bạn với màu vàng nổi bật. Bao quanh chùa là một hàng rào xây kiên cố, với nhiều hoa văn ấn tượng. Trong khuôn viên là có rất nhiều cây xanh cao to che bóng được trồng ngay hàng thẳng lối.
Cổng chùa Xiêm Cán đắp nổi nhiều hoa văn tỉ mỉ, nổi bật, đậm sắc thái Khmer. Bảng tên cổng thiết kế kiểu tháp nhọn đặc trưng của kiến trúc Angkor, có thêm hình ảnh tượng phật ngồi giữa uy nghiêm. Ngoài ra, bên dưới bảng tên cổng còn có hai chim thần Krut và hai con rắn năm đầu uốn lượn.
Không chỉ là ngôi chùa nổi tiếng với phong cách nghệ thuật lẫn kiến trúc Bạc Liêu đặc sắc. Chùa Xiêm Cán còn được biết đến là nơi lưu giữ và hình thành nên nhiều nét đẹp văn hóa trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc người Khmer. Chùa còn lưu giữ bộ sách Khmer cổ được viết trên lá cây dày đến 70 trang hay giảng đường cổ với những quyển truyện kể dân gian cũ từ thời xưa.
Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu
Nhắc đến Đờn ca tài tử Nam Bộ, bản “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu có lẽ là ca khúc nổi tiếng nhất. Vượt qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhiều biến cố lịch sử bản nhạc vẫn sống trong lòng cuộc đời. Trong chuyến du lịch miền Tây, nếu có dịp dừng chân trên mảnh đất Bạc Liêu bạn đừng quên dành thời gian thăm khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu để nghe những câu chuyện về sự ra đời của bản nhạc.
Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu thuộc phường 2, TP. Bạc Liêu. Được biệt, khu lưu niệm trước đây là khu mộ của gia đình nhạc sĩ, sau được tu bổ và xây dựng thêm các công trình nhằm mục đích tổ chức các sự kiện quan trọng, đồng thời làm nơi tiếp đón du khách phương xa.

Với tổng diện tích hơn 12.000 m2, khu lưu niệm Nhạc sĩ Cao Văn Lầu đuợc xem là điểm du lịch Bạc Liêu thú vị, nơi khẳng định vị thế của bản Dạ cổ Hoài lang và tôn vinh tài hoa của nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia năm 2012.
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (hay Sáu Lầu), sinh ngày 22/12/1892 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, quận Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Do hoàn cảnh khó khăn, gia đình ông trôi dạt nhiều nơi trước khi dừng chân tại Bạc Liêu. Với sự hướng dẫn những bước đi đầu tiên của nhạc sĩ cổ nhạc Lê Tài Khị, tài năng của một người nhạc sĩ lớn trong ông đã được phát triển.
Tượng đài này chính là chiếc đàn kìm – biểu tượng của Đờn ca tài tử Nam Bộ – gắn liền với hình ảnh nhạc sĩ Cao Văn Lầu – người con của tỉnh Bạc Liêu. Đàn kìm được cách điệu từ đốt tre, phần đàn kìm được đục lõm tạo sự huyền bí, thiêng liêng, gợi lên sự hoài niệm và tưởng nhớ về những người đã khuất. Đây cũng là nơi du khách thắp hương tưởng niệm.
Điểm nổi bật tại đây để tạo thêm tính thiêng liêng, huyền bí là các bậc thang lên đài ống tre được bố trí các số bậc: 2,4,8,16,32 và 64, tượng trưng cho cung bậc, nhịp phách của ca cổ cải lương tương ứng với từng nghệ nhân sáng tác. Đó là: nhịp 2 của Cao Văn Lầu, nhịp 4 của Trịnh Thiên Tư, nhịp 8 của Lư Hòa Nghĩa, nhịp 16 của Mộng Vân, nhịp 32 của Trần Tấn Hưng và nhịp 64 của Lý Khi.

Dẫn lên đài tre là lan can cầu thang bằng đá xanh Thanh Hóa được khắc họa hình dáng rồng hướng lên theo bậc thang kết hợp với vân mây tạo nên sự sinh động hài hòa vì Bạc Liêu được ví như là cái nôi đờn ca tài tử, phát triển mạnh nhất của Nam bộ, sức mạnh này được ví như rồng.
Xung quanh tượng đài ống tre được khắc họa trên đá 20 bài tổ như 3 bản Nam, 6 bản Bắc, 4 bản Oán, 7 bản Bắc lớn. Đằng sau biểu tượng chiếc đàn Kìm là tượng đài nhạc sĩ Cao Văn Lầu với nhạc phẩm “Dạ cổ hoài lang” được khắc ngay phía sau.
Song cùng với nhiều hạng mục kể trên, một trong những nơi tại khu lưu niệm cố nhạc sĩ không thể không nhắc tới, đó chính là khu mộ của gia đình cố nhạc sĩ. Khu mộ là nơi nằm cạnh nhau của thân sinh, thân mẫu và người vợ đoan trang của cố nhạc sĩ. Đến viếng ngôi mộ điệu nhạc nhẹ buồn, không gian như làm cho người ta thấy yêu và khâm phục hơn trước tài đức của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu.
Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu luôn là điểm đến mà nhiều du khách lựa chọn mỗi khi có dịp ghé thăm Bạc Liêu. Không chỉ để bày tỏ tình cảm với vị nhạc sĩ tài hoa, mà còn là cách để những người yêu thích môn nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ tìm hiểu sâu hơn những giá trị của môn nghệ thuật được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể. Với khu lưu niệm này, Bạc Liêu tự hào là vùng đất “địa linh nhân kiệt” đã sinh ra và nuôi nấng những lớp nghệ nhân, nghệ sĩ tài hoa.
Cánh Đồng Điện Gió
Từ thành phố Bạc Liêu, đi qua khu vườn nhãn cổ, chùa Xiêm Cán là đến. Khu điện gió Bạc Liêu còn được gọi là cánh đồng điện gió hay cánh đồng quạt gió, nằm tại vùng ven biển xã Vĩnh Trạch Đông, Thành phố Bạc Liêu, cách trung tâm TP hơn 10km. Đường đến vào cánh đồng điện gió được rải nhựa nên không quá khó khăn trong quá trình di chuyển, ngoài ra đây cũng là cơ hội khám phá cảnh quan xung quanh khu vực cánh đồng điện gió với rừng đước ngập mặn hoang sơ và các lồng nuôi cá kèo của người dân ở ven biển.
Khu điện gió Bạc Liêu là dự án điện gió đầu tiên ở Việt Nam, được xây dựng từ năm 2010 với vốn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng. Hiện nay đã có 62 cột tháp và turbin đều đặt trên biển, mỗi turbin cao khoảng 80m, cánh quạt dài 42m,…

Với những gì đang diễn ra tại đây, Nhà máy Điện gió Bạc Liêu quả thật đáng để coi như một điển hình phát triển năng lượng sạch và bền vững không chỉ ở Bạc Liêu mà còn cả một vùng rộng lớn vùng ven biển miền Tây đầy nắng và gió.
Với sự hoành tráng, khung cảnh đẹp không khác gì các cánh đồng điện gió ở châu Âu. Vì vậy, khu điện gió này đã nhanh chóng trở thành điểm du lịch thu hút đông đảo du khách đến thưởng ngoạn đặc biệt là các bạn trẻ đến chụp hình sống ảo.
Ai đến đây cũng sẽ thích thú với việc bố trí các trụ turbin gió như những hiệp sĩ khổng lồ và trầm mặc giữa cách đồng bao la mà đứng đâu cũng có thể chụp được những tấm hình đẹp và ấn tượng.

Đặc biệt, mới đây Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long đã quyết định công nhận khu điện gió Bạc Liêu là điểm du lịch tiêu biểu của Đồng bằng sông Cửu Long, đưa Bạc Liêu là địa phương có 9 điểm du lịch tiêu biểu trong vùng. 8 điểm đã được công nhận trước đó, gồm: Đền thờ Bác Hồ, Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Quảng trường Hùng Vương, Khu du lịch sinh thái Hồ Nam, Bãi biển nhân tạo-Khu du lịch Nhà Mát, Khu Quán Âm Phật Đài, Khách sạn Bạc Liêu, Khu Nhà Công tử Bạc Liêu.
Chỉ sau một thời gian được công nhận là điểm du lịch, cánh đồng điện gió gia tăng sức hút đối với khách tham quan, trung bình hàng tháng đã có chục nghìn lượt khách đã đến đây chiêm ngưỡng. Hiện khu điện gió Bạc Liêu trở thành điểm tham quan nổi tiếng miền Tây Nam Bộ, làm phong phú thêm cho các điểm du lịch Bạc Liêu.
Đến tham quan khu vực điện gió, du khách nên lưu ý các yêu cầu về an toàn hành lang lưới điện quốc gia và khu vực công việc bắt buộc phải được thực hiện nghiêm ngặt, đặc biệt là các khu vực cấm vào. Du khách có thể tự do tham quan trong phạm vi cho phép nhưng lịch sự, không gây ồn, ảnh hưởng đến công việc của các kỹ sư đang làm việc nơi đây.
Nhà Công Tử Bạc Liêu
Nói tới Bạc Liêu, người ta không chỉ nhắc tới Cao Văn Lầu cùng nghệ thuật Đờn Ca Tài Tử, mà còn nhiều lắm những giai thoại về Ba Huy (Công tử Bạc Liêu), nổi danh ăn chơi nức tiếng một thời. Du lịch Bạc Liêu, sẽ thật thiếu sót nếu bạn không dành thời gian tham quan nhà Công tử Bạc Liêu để tận mắt chiêm ngưỡng kiến trúc tại Bạc Liêu bề thế của căn nhà lớn nhất lục tỉnh miền Tây xưa.
Nhà Công tử Bạc Liêu hiện tọa lạc tại số 13 Điện Biên Phủ, phường 3, TP Bạc Liêu, nằm cạnh bờ sông Bạc Liêu. Ngôi nhà mang kiến trúc phương Tây sang trọng, được xây dựng từ năm 1917 đến năm 1919 thì hoàn thành. Ngôi nhà sở hữu kiến trúc bề thế nhất lục tỉnh miền Tây thời điểm lúc đó nên được người dân nơi đây gọi với cái tên “nhà lớn”.

Dinh thự do ông Trần Trinh Trạch, tức Hội đồng Trạch, cha Công tử Bạc Liêu xây khi công tử mới 19 tuổi. Ông Trần Trinh Trạch là chủ sở hữu của 74 sở điền, với 110.000 ha đất trồng lúa, gần 100.000 ha ruộng muối. Khi đó toàn tỉnh Bạc Liêu lúc bấy giờ có 13 lô ruộng muối thì 11 lô là của ông. Ông Trạch có 7 người con, 4 gái, 3 trai. Trong 3 người con trai, Trần Trinh Huy ăn chơi khét tiếng và nổi tiếng mê gái. Được biết, tổng số tài sản mà công tử Bạc Liêu được thừa hưởng và “tiêu hao” vào ăn chơi xa xỉ ước tính lên tới trên 5 tấn vàng.
Ngay khi bước chân vào ngôi nhà, du khách sẽ bị cuốn hút bởi những đường nét thiết kế tỉ mỉ, tinh tế, toát lên vẻ sang trọng và hào hoa. Những chiếc đèn màu vàng tỏa ánh sáng lung linh tạo cảm giác ấm cúng và lịch lãm. Trên mỗi cây cột của ngôi nhà đều được trang trí nhiều hoa văn đẹp mắt.
Tầng một (tầng trệt) của dinh thự gồm 2 phòng ngủ, phòng khách cùng hai đại sảnh rộng cùng với cầu thang lớn dẫn lên lầu. Trên lầu cũng có 2 phòng ngủ và hai đại sảnh rộng, thoáng, hút nắng, gió, khiến cho dinh thự luôn thông thoáng, mát mẻ.
Đến nay, công trình đã hơn năm tuổi nhưng những giá trị kiến trúc Bạc Liêu, nghệ thuật tại dinh thự của cậu Ba Huy, không những không bị “lạc hậu” so với thời thế mà trái lại, càng trở nên quý giá và được đánh giá cao.
Phần nhà bếp của căn nhà được cải tạo thành quầy bán vé cho khách quan. Trong nhà còn trưng bày nhiều đồ vật gắn liền với giai thoại của “Hắc công tử”. Đây chiếc ôtô được ông Trần Trinh Trạch mua năm 1930 tại Sài Gòn để đón con trai là Công tử Bạc Liêu đi du học Pháp trở về.

Theo các giai thoại này thì Công tử Bạc Liêu, là người Việt Nam sở hữu riêng máy bay đầu tiên cả nước; đi thăm ruộng bằng máy bay đầu tiên; người tổ chức đấu xảo sắc đẹp (tiền thân các cuộc thi sắc đẹp sau này) đầu tiên tại Nam kỳ… Là người Bạc Liêu, sở hữu nhiều đất đai, sở muối (đất làm muối), khai thác than, phố lầu cho thuê nhiều nhất nên rất giàu có. Điển hình là chuyện thi đốt tiền nấu chè với Bạch công tử hay “công tử Bạc Liêu đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” đã đi vào lời nhạc…
Công tử Bạc Liêu cùng với những giai thoại của mình đều đã trở thành hoài cổ, dĩ vãng. Ngày nay, dinh thự hay còn gọi với cái tên dân giã Nhà Công tử Bạc Liêu đã trở thành điểm đến yêu thích của du khách trong và ngoài nước. Và cũng chính những giai thoại về sự ăn chơi, lối sống phóng túng, xa hoa của Công tử Bạc Liêu lại càng khiến cho du khách phương xa thêm tò mò, hiếu kỳ muốn được một lần mục sở thị nơi ăn chốn ở của công tử xứ Bạc Liêu.
Blog’s Nguyễn Kiều Việt Như, tổng hợp