Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, thuộc Đồng bằng sông Hồng và nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam.
– KHÁM PHÁ KIẾN TRÚC VIỆT NAM – |
Bắc Ninh có một nền văn hoá nhân văn đặc sắc, một vùng quê văn hiến có nhiều di tích lịch sử văn hoá, lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống. Những dấu ấn lịch sử sống động truyền thống văn hoá Việt Nam, đậm đà bản sắc Kinh Bắc, được kết tinh trong những di sản văn hoá, các lễ hội dân gian. Bắc Ninh là địa phương thứ 3 xây dựng văn miếu có tầm cỡ, quy mô, trang trọng. Du lịch Bắc Ninh với những trang lịch sử văn hóa, giáo dục còn lưu giữ được cho đến ngày nay là những cứ liệu vô cùng giá trị của nền văn minh ở vùng Kinh Bắc, nơi có thành cổ Luy Lâu, nơi Sĩ Nhiếp truyền bá Hán học. Chùa Dâu, Chùa Phật Tích, Chùa Bút Tháp…có kiến trúc Bắc Ninh đẹp và là những nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam.
Bắc Ninh với các làn điệu quan họ, các làng nghề như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, dệt Hồi Quan. Các di tích lịch sử đáng kể có Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương – thờ Thuỷ Tổ Việt Nam, đền Đô – thờ tám vị vua triều Lý, đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, chùa Cổ Lũng v.v. Bắc Ninh có nhiều đặc sản Bắc Ninh như bánh phu thê Đình Bảng, bánh tẻ làng Chờ, bánh khúc làng Diềm, bánh đúc Đình Tổ, nem Bùi, rượu nếp làng Cẩm, cháo cá Bắc Ninh, tương Đình Tổ, bánh tro, bánh gai tươi, bánh giò Phủ Từ. Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hóa, cần cù và sáng tạo, với những bàn tay khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian.
Trung tâm văn hóa Kinh Bắc
Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc hiện là công trình có quy mô lớn nhất của tỉnh được xây dựng hoàn chỉnh, hiện đại trên tổng diện tích gần 10 ha, giữa trung tâm thành phố Bắc Ninh, trên đường Kinh Dương Vương, (phía sau Công viên Nguyên Phi Ỷ Lan). Đây là nơi đáp ứng nhu cầu hoạt động về mọi mặt văn hóa, nghệ thuật, hội họp có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Bên cạnh việc quan tâm đến các hoạt động sự nghiệp, Trung tâm còn chú ý đến hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng; xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể trong cơ quan; thực hiện tốt các các hoạt động xã hội, ủng hộ nhân đạo, từ thiện. Hàng năm, lãnh đạo và tổ chức công đoàn của Trung tâm phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước như: giữ gìn xanh, sạch, đẹp trong cơ quan; xây dựng con người gương mẫu và Trung tâm trở thành một công sở đẹp để nhân dân thấy rõ giá trị của một công trình văn hóa lớn nhất tỉnh, xứng đáng với tên gọi Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc…
Với sự cố gắng không ngừng và tinh thần phục vụ sáng tạo, văn minh, chu đáo của tập thể cán bộ, công nhân viên, Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc đã nhiều lần được UBND tỉnh và một số bộ, ban, ngành Trung ương, các cơ quan, đơn vị trong tỉnh khen thưởng.
Là công trình văn hóa tiêu biểu của tỉnh, Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc được đầu tư 180 tỷ đồng với nhiều hạng mục lớn như: hội trường A có sức chứa 1200 người, các phòng họp đa năng với quy mô từ 50 đến 500 người phù hợp cho tổ chức hội nghị, hội thảo, hội nghị khách hàng, các khóa huấn luyện ngắn hạn, ra mắt sản phẩm mới… Bên trong các phòng hội họp có hệ thống cách âm tốt, trang thiết bị âm thanh, ánh sáng, màn chiếu, máy chiếu phục vụ cho hội nghị được đầu tư đồng bộ, hiện đại.
Ngoài ra, Trung tâm còn có khu nhà vòm, các khu nhà trưng bày, triển lãm thành tựu văn hóa, kinh tế, xã hội, khoa học, công nghiệp, nông nghiệp. Đặc biệt, khu vực quảng trường có sân khấu ngoài trời với sức chứa hàng nghìn người là địa điểm lý tưởng để tổ chức những sự kiện lớn của tỉnh, quốc gia và quốc tế. Không gian thoáng, rộng mở, bãi để xe lớn và một bộ phận giữ gìn an ninh trật tự bảo đảm trực liên tục 24/24 đã giúp cho Trung tâm văn hóa Kinh Bắc không chỉ là địa điểm lý tưởng đối với những người làm công tác tổ chức lựa chọn mà còn mang lại sự tin cậy, tâm lý thoải mái, yên tâm cho những người tham gia, góp phần quan trọng vào sự thành công của sự kiện.
Bên cạnh đó, Trung tâm còn có đội ngũ cán bộ, công nhân viên dày kinh nghiệm, phục vụ tận tình, văn minh và thường xuyên được đào tạo, huấn luyện về cách giao tiếp, lễ tân, nhà phòng, chế biến món ăn… nên chất lượng phục vụ ngày càng chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng.
Làng Tranh Đông Hồ
Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đặc điểm: Là làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam.
Cách Hà Nội chừng 33km về hướng Đông và nằm sát bờ Nam đê sông Đuống, làng Hồ hay Đông Hồ là một làng nghề cổ truyền, có tên Nôm là làng Mái nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt.
Ca dao Việt Nam đã có những khắc họa thật sinh động về làng tranh Đông Hồ với hình ảnh một làng quê dung dị nằm nép mình bên dòng sông Đuống hiền hòa, nổi bật với những chuẩn mực đạo đức được cổ súy giữ gìn qua bao đời, đã tạo nên cung cách ứng xử độc đáo của người làng Mái: trọng danh dự, khí tiết, ăn nói lịch lãm, trên dưới thưa gửi rõ ràng và hiếm khi trong làng có người to tiếng chửi mắng nhau…
“Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh.”
Xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh.
Tranh Đông Hồ được khắc trên ván gỗ, trước hết là một bản nét, rồi tranh có bao nhiêu sắc thì thêm bấy nhiêu bản màu. Nền tranh là giấy gió (làm bằng vỏ cây gió) phết lên một lớp điệp một màu óng bạc (bột tán một loại vỏ sò).
Trên thớ điệp, khi hớn hở, khi thanh thản, những màu nguyên rung lên theo ánh sáng. Màu vàng hòe tượng trưng cho sự no đủ, màu vàng rộm lên như cánh đồng lúa chín, màu xanh như luỹ tre, màu đỏ gấc như yếm thắm, màu nhiễu tím như thắt lưng, màu đen như váy lĩnh giữa mùa quan họ. Tất cả đều là vật liệu có sẵn trong thiên nhiên thực vật mà cuộc đời chúng ăn sâu vào tâm thức người Việt từ thưở xa nào. Tiếng nói sâu kín của bản năng và tiềm thức không biết bao lần làm ta giật mình, bồi hồi trong kỷ niệm. Nét tranh khắc rất sâu, màu in phẳng đẹp.
Thành Cổ Bắc Ninh
Công trình kiến trúc Bắc Ninh với nghệ thuật quân sự tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng từ năm 1805 thời vua Gia Long, triều Nguyễn, trên địa phận các làng Ðỗ Xá, huyện Võ Giàng (nay thuộc phường Ninh Xá); làng Hòa Ðình, huyện Tiên Du (nay thuộc phường Võ Cường) và làng Yên Xá, huyện Yên Phong (nay thuộc phường Vệ An), các địa danh trên nay đều thuộc thành phố Bắc Ninh.
Gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa của cư dân nơi đây, thành Bắc Ninh từng đi vào câu ca quan họ với niềm tự hào Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ, ngoại năm thành chỉ có Bắc Ninh.
Tài liệu Bắc Ninh tỉnh Dư địa chí (Tư liệu Viện Hán Nôm A.590) chép về thành Bắc Ninh vào năm Gia Long thứ 14 (tức năm 1815) như sau: “Thành xây năm Ất Sửu, chu vi 1 ngàn 77 tầm, 3 thước. Ngoài thành có hào nước vây quanh, có 3 cửa: trước, sau, bên phải, mở ra năm Ất Sửu. Cửa thành trên vuông, dưới vuông, hai bên xây tường đất, gạch đá lẫn nhau. Trên xây các tòa nhà, đều lợp ngói. Cửa bên trái xây vào khoảng năm Giáp Tuất. Cửa ấy trên vuông, dưới vuông, hai bên vách đứng và trên mảnh đất ấy xây đài (nhà dài) 3 gian, lợp bằng rạ”.
Trước khi thực dân Pháp chiếm đóng, tỉnh lỵ của Bắc Ninh mới chỉ là một dãy phố trải dọc theo con đường chạm đá khoảng 1.500m, dân cư chủ yếu là hơn 1.500 người Hoa trú ngụ, còn quan lại và chính quyền đóng trong thành. Năm 1884, thực dân Pháp chiếm đóng và cai quản Bắc Ninh, tám năm sau, nhà thờ lớn của Tòa giám mục dòng Dominicain được xây dựng, kiến trúc Bắc Ninh đẹp và hoành tráng vẫn còn giữ đến ngày nay.
Toàn bộ khuôn viên thành cổ Bắc Ninh hiện nay do Trường Sĩ quan chính trị (Bộ Quốc phòng) quản lý, sử dụng. Do chiến tranh và sự xâm lấn của con người trong nhiều năm qua đã làm cho di tích bị xuống cấp nghiêm trọng. Dấu tích còn lại của thành cổ Bắc Ninh là ba cổng thành, một phần bờ thành và dãy hào sâu, hai khẩu súng thần công, trong đó nổi bật là cổng tiền với đài gác vọng, cột cờ cao gần 20m.
Chùa Dâu
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân, hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên ứng tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp.
Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước.
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm – chùa Tổ – nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
Lễ hội chùa Dâu diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là lễ hội gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong lễ hội còn có nhiều nghi thức và các trò chơi dân gian.
Bảo tàng Bắc Ninh
Tại Bảo tàng Bắc Ninh hiện đang lưu trữ và bảo quản nguồn tư liệu Hán – Nôm rất phong phú và đa dạng, gồm nhiều loại hình như thần tích, sắc phong, địa bạ, gia phả, văn tế, văn cúng, văn bia, văn chuông, hoành phi, câu đối… Trong số những loại hình di sản trên thì đáng chú ý nhất là hệ thống 64 bia đá hiện đang được trưng bày tại khuôn viên của Bảo tàng. Những tấm bia này chứa đựng nhiều thông tin quan trọng về lịch sử văn hóa mà thông qua đó các nhà nghiên cứu có thể hiểu được về lịch sử hình thành một vùng đất, công lao của một số danh nhân đối với lịch sử của dân tộc, phong tục tín ngưỡng của một cộng đồng dân cư.
Hệ thống di sản Hán Nôm là một thành tố trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam ta, góp phần tạo nên nét đa dạng cũng như bản sắc văn hóa Việt. Di sản Hán Nôm là một loại tài liệu khoa học chứa đựng nhiều thông tin đa dạng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, là mối dây liên kết giữa quá khứ – hiện tại và gìn giữ cho thế hệ tương lai một chiều dài lịch sử đậm đà bản sắc dân tộc. Nước ta có 2 di sản Hán – Nôm đã được UNESCO khu vực Châu Á – Thái Bình Dương công nhận là Di sản ký ức/ tư liệu của nhân loại là Châu bản Triều Nguyễn và Hệ thống bia ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội.
Đặc biệt, hiện Bảo tàng đang lưu giữ tấm bia “Xá lợi tháp minh” được coi là “tấm bia cổ nhất Việt Nam”. Nội dung văn bia cho chúng ta biết về sự kiện dựng tháp và đặt xá lợi vào năm Nhân Thọ nguyên niên (601) đời Vua Tuỳ Văn Đế ở chùa Thiền Chúng, huyện Long Biên, đất Giao Châu và nhiều thông tin quan trọng giúp cho việc nghiên cứu về tình hình chính trị, giao thông, quan hệ ngoại giao, lịch sử Phật giáo Việt Nam thời Tiền Lý. Bia do ông Nguyễn Văn Đức ở Xuân Quan, Trí Quả, Thuận Thành phát hiện trong khi đào đất làm gạch ở khu đồng Sau Chùa (khu vực này xưa thuộc đất chùa), cách chùa làng Xuân Quan hiện nay 20m và hiến tặng cho Bảo tàng.
Ngoài những văn bia, văn chuông đang được lưu giữ và trưng bày, hiện vẫn còn rất nhiều những văn bia đang được lưu trữ tại các làng xóm, một số khác còn đang bị lớp bụi thời gian che phủ. Để bảo tồn hệ thống những di sản văn bia tại các địa phương, Bảo tàng cũng đã dày công trong việc in dập và lưu trữ hơn 1.700 trang bản dập Hán – Nôm.
Ngoài các tư liệu thống kê trên, tại các địa phương còn có các tư liệu khác như ván khắc, biển chữ, văn tế, địa bạ, hương ước, gia phả, kinh sách… Những tư liệu này hiện chưa có số liệu cụ thể nhưng số lượng chắc chắn sẽ nhiều hơn tài liệu thần tích. Như vậy có thể thấy được nguồn tài liệu Hán – Nôm trong dân gian vẫn còn rất phong phú và đa dạng mà Bảo tàng cần có kế hoạch nghiên cứu sưu tầm.
Thư viện Bắc Ninh
Thời gian qua, Thư viện tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều đổi mới với những cách làm hay, qua đó thu hút bạn đọc, đưa sách đến với các tầng lớp nhân dân, xây dựng thói quen đọc sách trong cộng đồng.
Trong mỗi con người để tìm đến niềm vui đọc sách. Với sự đầu tư đồng bộ, thư viện đã chỉnh trang hệ thống các giá kệ để sách đẹp mắt, linh hoạt. Theo đó, các loại bàn ghế phục vụ bạn đọc cũng được thiết kế với nhiều hình khối và mầu sắc bắt mắt, tạo không gian đọc sách hài hòa, thư giãn. Theo lãnh đạo thư viện, cùng với không gian đọc được thay đổi, trong thời gian tới, sẽ đưa vào sử dụng phòng chiếu 3D để trình chiếu các bộ phim hoạt hình, phim tư liệu về danh nhân văn hóa, truyền thống lịch sử và di sản của Bắc Ninh. Hiện đại hóa không gian đọc sách và linh hoạt trong cách tiếp cận thông tin từ sách là cách mà những người làm công tác thư viện ở đây đang nung nấu và mong muốn thực hiện.
Luôn tìm tòi, sáng tạo và đổi mới là điều mà những người làm công tác thư viện ở tỉnh Bắc Ninh quan tâm, nhất là trong thời đại 4.0 và sự phát triển của công nghệ thông tin. Ðáp ứng nhu cầu đọc và tìm hiểu thông tin của bạn đọc trong thời đại mới, đặc biệt là hướng tới các bạn đọc trẻ, Thư viện tỉnh Bắc Ninh đã lập một trang mạng độc lập để kết nối với bạn đọc quan tâm đến sách trong toàn tỉnh. Việc giới thiệu sách mới và các hoạt động liên quan đều được cập nhật tại đây để bạn đọc có thể tra tìm các đầu mục sách và tìm được loại sách mà mình yêu thích ngay tại nhà. Theo quyết định mới nhất của tỉnh Bắc Ninh, dự kiến đến năm 2021 sẽ tiến hành số hóa thư viện điện tử song song với thư viện truyền thống như hiện nay.
Trong quá trình phục vụ, các cán bộ thư viện luôn chủ động giới thiệu sách cho bạn đọc, để mỗi người có hướng tìm đọc nhanh nhất. Ðồng thời, thư viện thường xuyên kết hợp với ngành giáo dục của tỉnh và trường học các cấp để tổ chức những buổi tuyên truyền, giới thiệu sách đến học sinh, sinh viên. Ðây được xem như những buổi học ngoại khóa bổ ích, vừa hoạt động trải nghiệm, vừa vui chơi giải trí, kích thích và gia tăng nhu cầu hiểu biết của các em ngay từ khi còn nhỏ. Từ đó lan tỏa nhiều thông điệp ý nghĩa mà chúng ta học hỏi được từ trong mỗi quyển sách, truyền cảm hứng sống tích cực đến tất cả mọi người trong xã hội. Năm 2019, tỉnh Bắc Ninh đầu tư sửa chữa, cải tạo toàn bộ diện tích tòa nhà 500 m2 với mong muốn ngày càng thu hút bạn đọc đến thư viện nhiều hơn. Với hơn 7.000 đầu sách các loại như sách văn học, sách nghiên cứu chuyên ngành, truyện đọc thiếu nhi, mỗi ngày thư viện tỉnh phục vụ cho hàng chục lượt người tại các huyện, thị xã, phường trong toàn tỉnh. Bạn đọc có thể mượn về nhà hoặc tự chọn sách đọc tại chỗ, có nước uống miễn phí, có quạt mát và sạc điện thoại ngay tại phòng đọc.
Chùa Bút Tháp
Chùa Bút Tháp nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp, chùa Thấp. Tên cũ của chùa trước đây gồm có: Thiếu Lâm Tự, Hoàng Cung Tự.
Trong chùa có tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Để xác định chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra một tài liệu chính xác. Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”. Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diệu Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đây là một trong không nhiều ngôi chùa cổ, có quy mô kiến trúc lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc tại Bắc Ninh độc đáo, bố cục hài hòa giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường “Thần Đạo” và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên, đó là tòa Tiền Đường Thượng Điện, cầu đá tòa Thích Thiện Am Trung Đường, phủ thờ nhà Hậu Đường và hàng tháp đá. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện một nội dung tư tưởng về giáo lý của đạo Phật. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên một trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Kiến trúc đẹp tại Bắc Ninh vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động và độc đáo. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và đá, ở kiến trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt trên lan can tòa Thượng Điện có 26 bức chạm khắc đá, trên lan can cầu đá nối với Tòa Thích Thiện Am có 12 bức và ở lan can quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức. Như vậy tổng cộng các bức chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều tập trung về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.
Bức chạm đá lan can chùa Bút Tháp này rất đẹp, được Sách Giáo Khoa và sách báo trích dẫn, sử dụng trong minh hoạ về văn học và nghệ thuật dân gian. Bức chạm là ẩn dụ lời chúc: Đường khoa cử chặng nào cũng thuận, tiếp liền thi và đỗ. Đây là lời cầu mong bên cạnh Tước Lộc, Phong Hầu ở bức chạm bên cạnh.
Khỉ đang trêu ong. Hình ảnh vui tươi ngộ nghĩnh. Khỉ tên chữ Hán là Hầu; ong là Phong; đồng âm với hai chữ Phong Hầu. Bức chạm cho thông điệp là ước mong về việc được Phong hầu.
Cầu mong phong hầu nhưng còn cầu được sống lâu để hưởng nên có chạm cây đào đang cho chùm quả, để biểu thị cầu thêm thọ. Thọ lâu để hưởng phong hầu!
Chim sẻ và Hươu. Hình ảnh vui tươi ngộ nghĩnh. Chim sẻ tên chữ Hán là Tước, Hươu là Lộc, đồng âm với Tước Lộc Bức chạm cho thông điệp là ước mong về việc được Tước lộc. Bức chạm còn khắc hình cành lựu trĩu quả , lựu nhiều hạt tượng trưng cho sự sinh sôi đông đúc chen chúc, cũng là biểu tượng phụ hoạ cho biểu tượng chính để cầu mong tước lộc nhiều. Đã có Tước Lộc, lại đông con nhiều cháu để đời đời hưởng tước lộc.
Chùa có tháp Báo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, đỉnh tháp là ngọn bút trông giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 mét, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn với mái hiên nhô ra; bốn tầng trên gần giống nhau, mỗi cạnh rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
Chùa Lim
Chùa Lim là một ngôi chùa nổi tiếng của vùng đất Bắc Ninh. Nơi đây tọa lạc ở xã Vân Tương, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi chùa này nằm ở trên đỉnh của núi Lim hay còn được biết đến với tên gọi khác là núi Hồng Vân. Hằng năm, nơi đây thu hút đông đảo du khách thập phương ghé tới để cầu may cũng như về với lễ Hội Lim nổi tiếng.
Hội Lim cách thủ đô Hà Nội khoảng chừng 30km. Do đó, bạn có thể dễ dàng di chuyển bằng nhiều phương tiện khác nhau.
Như đã nói ở trên, chùa Lim nằm ở trên ngọn đồi cùng tên. Đây là nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu, được xem là người đã sáng lập ra tục hát Quan Họ.
Mặc dù so với trước đây chùa Lim đã thu nhỏ về diện tích thế nhưng nơi đây vẫn được rất nhiều người biết đến nhờ lễ hội Lim nức tiếng khắp nơi. Là một người con đất Bắc, nhất định bạn hãy một lần ghé tới Hội Lim nhé! Vậy lễ Hội Lim diễn ra vào ngày nào?
Hội Lim diễn ra ở 3 xã: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Chính hội sẽ được diên ra vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm. Tuy nhiên, từ ngày mùng 9 – mùng 10 nhân dân khắp làng đã bắt đầu rục rịch tổ chức và chào đón du khách thập phương ghé tới.
Được biết, nguồn gốc của hội Lim được bắt nguồn từ hội hàng tổng từ thế kỉ 18. Thôn Đình Cả, Nội Duệ có 1 quan trấn thủ tên là Nguyễn Đình Diễn. Ông có nhiều công lao với triều đình nên được ban thưởng rất nhiều bổng lộc. Tuy nhiên, ông lại hiến rất nhiều đất đai và tiền của để trùng tu các đình chùa, mở mang hội hè.
Đặc sắc nhất trong lễ hội ở chùa Lim có lẽ chính là phần hội. Sau khi phần lễ hành hương đã xong, dân làng bắt đầu tổ chức những hoạt động và trò chơi hấp dẫn như đấu vật, thi nấu cơm, chơi cờ… Nổi bật trong đó chắc chắn không thể không nhắc đến phần Hát Hội hay còn được biết đến là hát Quan Họ.
Ngày diễn ra hát Quan họ bắt đầu từ ngày 12 tháng Giêng tại sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ ở các chùa, đình… Những người hát Quan họ sẽ được gọi là liền anh và liền chị và diện áo dài đeo nón quai thao. Họ sẽ hát đối đáp nhau bằng những làn điệu kết hợp giữa thơ và nhạc điệu. Nếu bạn được thưởng thức những khúc ca quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát, chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.
Đền Lý Bát Đế
Đền Lý Bát Đế, còn gọi là Đền Đô hoặc Cổ Pháp điện là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Lý. Đền Lý Bát Đế đã được Nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử – văn hóa theo Quyết định số 154 của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ngày 25 tháng 1 năm 1991. Năm 2014, nơi đây cùng với khu lăng mộ các Vua nhà Lý đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Đền Lý Bát Đế thuộc Khu Phố Thượng, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đền nằm cách thủ đô Hà Nội gần 15 km về phía Bắc, thuộc địa phận hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nên còn gọi là đền Cổ Pháp.
Từ xa xưa, Cổ Pháp được liệt vào làng “tam cổ”: “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp”. Đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng. Làng Cổ Pháp được cho là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm.
Đền Lý Bát Đế được khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng 3 năm Canh Ngọ 1030 bởi Lý Thái Tông khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau này, đền được nhiều lần trung tu và mở rộng. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm thứ 3 niên hiệu Hoằng Định của vua Lê Kính Tông (tức năm 1602), khắc văn bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, quân Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn đền. Đến năm 1989, đền đã được khởi công xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến trúc mà các nhà nghiên cứu lịch sử đã phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ.
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Cổng vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm con rồng. Trung tâm của Khu nội thành và cũng là trung tâm đền là chính điện. Chính điện gồm trước tiên là Phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70 m². Tiếp đến nhà Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ được coi là bức chiếu bằng gốm lớn nhất Việt Nam với chiều cao 3,5 mét, rộng hơn 8 mét, được ghép lại từ 214 chữ Hán làm bằng gốm Bát Tràng.
Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng Nam quốc sơn hà:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Sau cùng là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Thần Tông và Lý Cao Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Nhân Tông, Lý Anh Tông, và Lý Huệ Tông.
Trong nội thành còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc Bắc Ninh theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao cong mềm mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông đền có nhà bia, nơi đặt “Cổ Pháp Điện Tạo Bi” (bia đền Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103 cm, dày 17 cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
Khu ngoại thất đền Lý Bát Đế gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với ao Cả trên và ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc hồ rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đền Lý Bát Đế từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy bạc “năm đồng vàng” và là hình in trên đồng tiền xu 1000 hiện nay. Nhà văn chỉ ba gian chồng diêm rộng 100 m² nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc, những quan võ đã có công lớn giúp nhà Lý. Ngoài ra, ở khu vực ngoại thành còn có nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng), v.v…
Nhà thờ chính tòa Bắc Ninh
Nhà thờ Chánh tòa Bắc Ninh tọa lạc tại đường Ngô Gia Tự, Ninh Xá, tỉnh Bắc Ninh. Vị trí nhà thờ đắc địa ngay giữa trung tâm thành phố Bắc Ninh và chỉ cách thành cổ Bắc Ninh 300m. Năm 1889, Đức cha Antonio Lễ – Giám mục tiên khởi đã chọn mua mảnh đất tại đây và bắt đầu cho xây dựng nhà thờ cùng với Tòa Giám Mục. Sau 3 năm xây dựng, đến năm 1892 Nhà thờ Chánh tòa Bắc Ninh chính thức được khánh thành. Từ đó đến nay, đây là nơi tập trung sinh hoạt thường xuyên tín ngưỡng tôn giáo của giáo dân Bắc Ninh và các khu vực xung quanh.
Trong những năm chiến tranh ác liệt, nhiều công trình lịch sử bị tàn phá nặng nề. Vậy nhưng trải qua hơn một trăm năm thăng trầm, nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh vẫn sừng sững vững vàng vượt qua bom đạn, rêu phong của năm tháng và trở thành biểu tượng cho giáo phận Kinh Bắc, là “di sản Đức Tin” lưu giữ những minh chứng lịch sử hùng hồn của dân tộc. Nhờ thế mà dù gặp biết bao khó khăn trong đời sống đức tin, nhưng niềm tin sắt son của giáo phận Bắc Ninh vẫn mãi kiên vững không lay.
Không gian nhà thờ được xây dựng theo cấu trúc hình chữ thập và tuân theo quy tắc đối xứng đặc trưng của kiến trúc Bắc Ninh thời kỳ Phục Hưng. Nhà thờ có chiều dài khoảng 45m, chiều ngang rộng 12m được tạo thành từ 12 cột chính hình chữ nhật cao hai tầng tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ, chia đều hai hàng mỗi bên sáu chiếc.
Nhìn từ xa, bạn sẽ cực kì ấn tượng với ngoại hình bên ngoài của Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh. Điểm nhấn đầu tiên là mặt tiền nhà thờ với hai ngọn tháp cao 22m. Ngọn tháp này được tạo thành từ 4 khối hình hộp xếp chồng lên nhau và trên cùng là tháp chóp. Có ý kiến cho rằng hai ngọn tháp này tượng trưng cho liền anh và liền chị đang đứng nâng chiếc nón quai thao. Phía trong hai ngọn tháp có treo ba quả chuông bằng đồng được đúc từ khi xây dựng nhà thờ. Suốt hơn một thế kỉ qua, tiếng chuông nhà thờ Bắc Ninh cao vút quen thuộc vẫn vang lên đều đặn lan tỏa khắp các phố phường. Tiếng chuông ấy đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng nói riêng và trên miền quê hương Quan họ nói chung.
Phía mặt trước nhà thờ ta có thể dễ dàng nhận ra rất nhiều hình ảnh tượng trưng về Đức Mẹ. Trên cùng là biểu tượng của Mẫu Tâm với hình trái tim kết hợp cùng vương miện. Ngay bên dưới đó là hình ảnh triều thiên cùng bốn bông hoa tượng trưng cho Đức Mẹ Mân Côi. Hai bên cạnh chạm khắc hai huy hiệu Giám mục được cho là của Đức Cha An-tô-ni-ô Cô-lô-mơ Lễ Lễ và Ðức cha Mac-xi-mi-nô Van-lát-cô Khâm. Phía dưới là bốn bông hồng được khắc thêm trong dịp kỉ niệm nhà thờ tròn 100 tuổi, biểu tượng cho lòng sùng mến Đức Mẹ. Dưới sảnh đường nhà thờ bố trí ba cửa vào, một cửa lớn ở chính diện và hai cửa phụ nhỏ hai bên. Điều này khá tương đồng với cổng làng Tam quan ở các làng quê Việt Nam.
Đi vào bên trong nhà thờ, có lẽ bạn sẽ còn ấn tượng hơn nữa với không gian nơi đây. Một không gian rộng lớn, thoáng đãng và tràn ngập ánh sáng lung linh mỗi buổi sớm khi nắng mai chiếu xuống. Gian cung thánh chính là trung tâm nhà thờ với thiết kế vô cùng độc đáo và tinh tế với hàng ngàn mảnh gỗ Hương đỏ xếp xen kẽ nhau. Mái trần nhà thờ được xây bằng gỗ dồi theo kiểu đan mắt cáo. Hai bên là các bức tranh kính khắc họa chân dung 4 vị Thánh sử và diễn tả 20 mầu nhiệm kinh Mân côi. Điểm nhấn của gian cung thánh chính là cây Thánh giá được làm bằng gỗ hương đỏ lớn cùng tượng “Chịu nạn” được trạm trổ bằng gỗ Pơmu nguyên khối. Bên trên gác đàn có 12 bức phù điêu vẽ 12 nhà thờ giáo xứ đầu tiên được thiết lập khi giáo phận mới được khai sinh vào năm 1883.
Phía cuối nhà thờ là Chính toà – nơi đặt ngai Giám mục thể hiện cho sự hiện diện diện và cai quản của Đấng Bản Quyền giáo phận. Bàn Thánh, Ghế và bục đều được làm từ gỗ Hương đỏ chạm khắc tinh tế tượng trưng cho sự giao hoà đất trời và sự trường tồn vĩnh cửu của Đạo Chúa.
Bên trái gian cung thánh là bức tượng Nữ Vương Thánh Mân Côi cổ nhất Giáo phận. Theo tài liệu ghi chép lại, bức tượng này được các Cha Dòng Đa Minh Tây Ban Nha tặng nhà thờ nhân dịp khánh thành năm 1892. Dáng vẻ mềm mại, dịu dàng làm cho bức tượng thêm sống động và mang đậm hơi thở của đời sống Đức Tin. Đối diện sang phía bên phải gian cung thánh là tượng Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh, trong tay cầm cành thiên tuế. Thời vua Minh Mạng ngài đã can trường giữ vững Đức tin qua việc khẳng định “Thiên Chúa là thượng phụ” và chịu phúc tử đạo vào ngày mồng 5 tháng 9 năm 1838 tại pháp trường Cổ Mễ. Đến ngày 27 – 5 – 1900, Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII suy tôn Ngài lên bậc Chân Phước của Giáo Hội. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn Ngài lên bậc Hiển Thánh.
Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh đã trải qua một lần trung tu vào năm 1990 nhưng nơi đây vẫn còn nguyên vẹn nét kiến trúc cổ kính vốn có. Ngày nay, nơi đây điểm sinh hoạt tôn giáo thường xuyên của các giáo dân. Vào mỗi chủ nhật hàng tuần, mọi người đều cùng tới nhà thờ và cầu nguyện. Ngày nay, nơi đây trở thành một điểm đến của rất nhiều giáo dân trong khu vực cũng như khách du lịch Bắc Ninh và các bạn trẻ tới tham quan khám phá.
Chùa Phật Tích
Chùa Phật Tích còn gọi là chùa Vạn Phúc là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa tại Quyết định số 313/VH-VP, ngày 28 tháng 4 năm 1962 của Bộ Văn hóa và được Thủ tướng chính phủ ký và xếp hạng 62 Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.
Nền móng chân tháp có hình vuông, với kích thước chân tháp 9,1m x 9,1m, tường tháp mỗi cạnh dày trung bình 2,4m, lòng tháp rộng 82,81 m2, chân tháp được xây bằng gạch thời Lý, kỹ thuật xây móng nền tháp có thể so sánh với các móng nền gạch kiến trúc Lý ở Hoàng thành Thăng Long. Những viên gạch xây tháp có đề chữ: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” (Vua thứ ba đời Lý, năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 xây dựng) hoặc “Chương Thánh Gia Khánh”.
Chùa được kiến trúc theo kiểu Nội công ngoại quốc (giống với lối kiến trúc tại chùa Vĩnh Nghiêm, một ngôi chùa nổi tiếng khác ở xứ Kinh Bắc), sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này nên có câu đối “Đệ nhất cung tần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương”. Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền.
Ngôi chùa có kiến trúc Bắc Ninh của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật.
Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: “…Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên…” Do tích này, trước đây chùa Phật Tích mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa và các văn nhân thi sĩ bình thơ.
Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8,5 m.
Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn nước.
Sau sân nền có 32 ngọn tháp xây bằng gạch và đá là nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì ở đây, phần lớn được dựng vào thế kỷ 17.
Ngọn tháp lớn nhất là Tháp Phổ Quang, cao 5,10 m gồm đế, khám thờ, hai tầng diềm và mái mui luyện với chóp tròn.
Nhiều tác phẩm điêu khắc thời nhà Lý còn được giữ tại chùa cho đến nay. Ngay ở bậc thềm thứ hai, có 10 tượng thú bằng đá cao 10 m, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn. Quan trọng nhất là pho tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh đang ngồi thiền định trên tòa sen,bức tượng cao 1,86 m; thêm phần bệ thì đạt 2,69 m. Trên bệ và trong những cánh sen, có những hình rồng và hoa lá, một nét đặc trưng của mỹ thuật thời Lý.
Ở chùa còn có những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu kê…trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ pháp, thần điểu, các nhạc công, vũ nữ v.v…
Hàng năm vào ngày 4 tết Nguyên Đán, nhân dân Phật Tích thường mở hội truyền thống để tưởng nhớ công lao các vị tiền bối đã khai sinh và tu tạo chùa. Trong những ngày xuân tưng bừng ấy, khách thập phương về đây lễ Phật, hái hoa mẫu đơn, thưởng ngoạn cảnh đẹp vùng Kinh Bắc hoặc tham dự các trò chơi ngày hội như đấu vật, chơi cờ, đánh đu, hát quan họ…
Đình Bảng
Đình làng Đình Bảng, tên Nôm là đình Báng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp hay tên Nôm là làng Báng), thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình được xây dựng vào đầu thế kỷ 18, thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương (thần Núi), Thủy Bá đại vương (thần Nước) và Bách Lệ đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.
Đình Đình Bảng là một trong những ngôi đình có kiến trúc đẹp nhất còn tồn tại đến ngày hôm nay. Người xưa đã có câu:
Thứ nhất là đình Đông Khang,
Thứ nhì đình Bảng, vẻ vang đình Diềm.
Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê kéo dài ba mươi sáu năm đến năm 1736 mới hoàn thành. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương, người Đình Bảng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên, quê ở Thanh Hóa. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình.
Đình Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ, còn gọi theo dạng chữ Nho là kiểu “chữ đinh” 丁. Tòa đại đình dài 20 m, rộng 14 m, cao 8 m, phần mái rủ xuống đẹp đẽ chiếm tới 5,5 m tổng chiều cao.
Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở không gian mái đình tỏa rộng, nét đồ sộ của những đầu đao, quy thức thích nghi với khí hậu gió mùa, và trang trí điêu khắc dày đặc.
Đình được dựng trên nền cao có thềm bó bằng đá xanh. Đặc biệt, đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 m so với mặt nền, sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc bằng gỗ lim có đường kính từ 0,55m (với cột con) đến 0,65m (với cột mẹ) được kê trên các tảng đá xanh.
Nóc đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các công trình kiến trúc Bắc Ninh gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh.
Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Đặc biệt, hình tượng rồng chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 hình. Gian chính điện (gian giữa) có sàn thấp, lát gạch lá nem. Gian này thấp nhất, thuật ngữ là “lòng thuyền”. Sàn ván các gian hai bên cao dần, tổng cộng là hai cấp, phân biệt địa vị của các hương chức khi họp việc làng để người ngồi “chiếu trên”, kẻ ngồi “chiếu dưới” tùy theo vai vế trong làng.
Bức cửa võng và tấm trần che của gian chính điện được chạm trổ công phu. Trên ván nong, phía dưới bao lơn của hàng cột cái và cột con có một bức chạm hình “Bát mã quần phi” (Bầy ngựa tám con đang phi) với các đáng điệu rất sống động. Trong đình có nhiều bức hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng.
Văn miếu Bắc Ninh
Văn miếu Bắc Ninh là một trong 6 văn miếu của Việt Nam. Tại đây thờ Khổng tử, và 12 bia “Kim bảng lưu phương” lưu danh 677 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc (bao gồm Bắc Ninh, Bắc Giang và một số xã sau này nhập về huyện Gia Lâm, Đông Anh thuộc Hà Nội và Văn Lâm, Văn Giang thuộc Hưng Yên).
Trải gần nghìn năm chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam: bắt đầu từ khoa thi Minh kinh bác học triều Lý năm Ất Mão 1075 đến khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn 1919, có 188 khoa thi với 2971 vị đỗ đại khoa, riêng vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc gần 700 vị, theo địa giới hành chính hiện nay thì tỉnh Bắc Ninh có khoảng gần 400 vị.
Truyền thống khoa bảng của Bắc Ninh bắt đầu với người đỗ thủ khoa đầu tiên trong nước đó là ông Lê Văn Thịnh. Ông là người thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, đỗ trạng nguyên khoa thi Minh Kinh bác học triều Lý năm 1075 (khoa thi chọn người giỏi vào hầu vua học), vì vậy ông được người đời phong ông là vị trạng nguyên khai khoa đầu tiên của đất Việt. Sau đó, năm 1084 vua cử ông tới trại Vĩnh Bình để giải quyết vấn đề biên giới giữa 2 nước, với tài ngoại giao suất sác ông đã đòi lại cho nước ta 6 huyện, 3 động. Với công lao to lớn ông được thăng chức Thái Sư và ông giữ chức này trong suốt 12 năm;
Trong chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam, chỉ có 2 vị được phong là lưỡng quốc trạng nguyên (Mạc Đĩnh Chi quê Hải Dương và Nguyễn Đăng Đạo người thôn Hoài Thượng, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, Bắc Ninh). Nguyễn Đăng Đạo đỗ trạng nguyên năm 1683, ông là nhà chính trị ngoại giao lỗi lạc, trong một lần đi xứ nhà Thanh với trí thông minh và tài ngoại giao xuất sắc của mình ông đã đòi lại cho nước ta 3 động, nhà Thanh vô cùng cảm phục suy tôn là đệ nhất khôi nguyên Bắc Triều. Sau khi ông mất, nhà vua vô cùng thương tiếc và ban cho 4 chữ: “Lưỡng quốc Trạng nguyên” và đôi câu đối “ Tiến sĩ thượng thư thiên hạ hữu. Trạng nguyên tể tướng thế gian vô”.
Lý Đạo Tái, sinh năm 1254 quê ở làng Vạn Tư huyện Gia Định nay là thôn Vạn Ty xã Thái Bảo Huyện Gia Bình, Bắc Ninh. Ông đỗ trạng nguyên năm 1274 sau một thời gian làm quan, ông cáo quan về quê và tu hành lấy pháp hiệu là Huyền Quang (là vị tổ thiền thứ ba của thiền phái Trúc Lâm).
Vùng đất Kinh Bắc còn nổi tiếng với “tứ gia vọng tộc” – Những gia tộc có nhiều người đỗ đạt cao làm vẻ vang cho dòng họ.
Văn miếu Bắc Ninh được khởi dựng vào thời Lê, thời kỳ Nho giáo có ảnh hưởng quan trọng tới nền chính trị của dân tộc, đây là một trong ít Văn miếu hàng tỉnh ở nước ta được xây dựng. Theo sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn và bia “Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký” dựng vào năm Duy Tân thứ 6 (1912) cho biết: “Văn miếu Bắc Ninh ở phía Đông Bắc tỉnh thành thuộc Sơn Phận xã Thị Cầu, huyện Võ Giàng được tu bổ vào năm Gia Long thứ nhất (1802), làm lại năm Triệu Trị thứ 4 (1844)”. Tuy nhiên qua thời gian nhất là giai đoạn đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, triều đình phong kiến nhà Nguyễn thiếu sự quan tâm, chú ý nên Văn miếu Bắc Ninh bị hư hại hoang phế.
Tổng thể công trình gồm: Tiền Tế (5 gian), Hậu Đường (5 gian), hai bên hồi Hậu Đường là Bi Đình (3 gian 2 dĩ), hai bên hồi Tiền Đường là Hội đồng trị sự và Tạo Soạn; hai bên sân trước Tiền Tế là nhà Tả Vu, Hữu Vu.
– Bái đường là nơi đặt ban thờ và hai tấm bia đá có tên “Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký” dựng năm Duy Tân 6 (1912) có nội dung ghi chép lại việc di dời Văn Miếu từ núi Thị Cầu về núi Phúc Đức ngày nay
– Tiền tế là nơi hành lễ trước kia, hiện có 2 tấm bia “Phụ ký” (ghi chép các vị Tiến sĩ không được khắc trên Kim bảng lưu phương) và “Bắc Ninh tỉnh quan viên cung tiến” (dựng năm 1896, nội dung văn bia đề cập quan viên tỉnh Bắc Ninh cung tiến ruộng cho Văn miếu để làm tự điền) được đặt ở đầu hồi nhà. Hậu đường nằm phía sau Tiền tế, cách nhau bằng một khoảng sân rộng 2m. Đây là nơi thờ Khổng Tử, Tứ phối và các bậc Tiên hiền.
– Hai bên Tiền tế là dãy Tả vu, Hữu vu là nơi thờ tự các Cử nhân, Tú tài của đất Kinh Bắc.
– Toàn bộ công trình có kiến trúc chồng giường giá chiêng, hệ thống khung gỗ lim được bào trơn đóng bén.
Tại đây, thực dân Pháp còn cho xây dựng lô cốt, tháp canh để bao quát các vùng lân cận.
Sau hoà bình lập lại, Văn miếu được nhân dân địa phương góp công sức tiền của tôn tạo lại nhằm phát huy truyền thống giáo dục khoa bảng của quê hương. Với những giá trị lớn lao nhiều mặt của di tích, năm 1988 Văn Miếu Bắc Ninh đã được xếp hạng là Di tích quốc gia.
Blog’s Nguyễn Kiều Việt Như, tổng hợp