Ý hay Italia có tên chính thức là nước Cộng hoà Ý. Là một nước cộng hoà nghị viện đơn nhất tại châu Âu. Lãnh thổ Ý vươn ra phần trung tâm của Địa Trung Hải, hai đảo lớn nhất là Sicilia và Sardegna. Dãy Alpes/Alpi giới hạn phần lục địa phía Bắc của Ý, tạo thành biên giới trên bộ với Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Slovenia, trong khi San Marino và Vatican nằm lọt trong nước cộng hoà. Ý có diện tích là 301.338 km², và phần lớn có khí hậu ôn đới theo mùa và Địa Trung Hải. Do hình dạng lãnh thổ, Ý thường được ví như lo Stivale (chiếc ủng).
– KHÁM PHÁ KIẾN TRÚC THẾ GIỚI – |
Thành tựu kiến trúc Ý đáng kể, như xây dựng các khung vòm, mái vòm, và các cấu trúc tương tự vào thời La Mã cổ đại, lập nên phong trào kiến trúc Phục hưng vào cuối thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, và là quê hương của kiến trúc Palladio, một phong cách xây dựng truyền cảm hứng cho các phong trào như kiến trúc Tân cổ điển, và ảnh hưởng đến các thiết kế mà giới quý tộc trên khắp thế giới dùng để xây nhà vùng thôn dã của họ, đáng chú ý là tại Anh, Úc và Hoa Kỳ từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Ý có một số công trình tinh tế nhất của kiến trúc phương Tây, như Đấu trường La Mã, Nhà thờ chính tòa Milano, Nhà thờ chính tòa Firenze, Tháp nghiêng Pisa và các thiết kế toà nhà tại Venezia.
Kiến trúc Italia cũng có ảnh hưởng rộng đến kiến trúc thế giới. Kiến trúc sư người Anh Inigo Jones được truyền cảm hứng từ thiết kế của các toà nhà và thành thị Ý, đã đưa các ý tưởng kiến trúc Phục hưng Ý về nước Anh thế kỷ XVII, lấy cảm hứng từ Andrea Palladio. Ngoài ra, kiến trúc Italianate (kiểu Ý) phổ biến ở nước ngoài kể từ thế kỷ XIX, được sử dụng để mô tả công trình kiến trúc tại nước ngoài được xây theo một phong cách Ý, đặc biệt là phỏng theo kiến trúc Phục hưng.
Tháp nghiêng Pisa
Tháp nghiêng Pisa là một tòa tháp chuông tại thành phố Pisa (Ý) được khởi xây năm 1173. Toà tháp cao 55,86 m tính từ mặt đất lên đến nóc bên thấp và 56,70 m đến nóc bên cao. Từ dưới lên có 294 bậc thang. Tường tháp dày 4,09 m ở phía chân tháp, rồi rút dần, chỉ còn 2,48 m trên đỉnh. Trọng lượng toàn tháp là khoảng 14.500 tấn.
Ngay trong khi đang xây, tòa tháp đã bắt đầu nghiêng vì lún. Để ổn định cấu trúc tháp không tiếp tục chao nghiêng, một số biện pháp địa kỹ thuật đã được xúc tiến, giữ cho tháp ở nguyên hiện trạng. Tháp Pisa riêng nó đã là tòa nhà mỹ thuật nhưng càng hấp dẫn thêm vì dáng nghiêng nghiêng, thu hút du khách hàng năm tới Pisa.
- Độ cao của Piazza dei Miracoli: khoảng 2 mét (6 feet, DMS)
- Chiều cao: 55.863 mét, 8 tầng
- Đường kính ngoài đế: 15.484 m
- Đường kính trong đế: 7.368 m
- Góc nghiêng: 3.99 độ về hướng nam, hay 3.9 m theo chiều thẳng đứng
- Trọng lượng: 14.700 tấn
- Chiều dày tường ở đế: 2.4 m
- Tổng số chuông: 7, sắp xếp theo thang âm, theo chiều kim đồng hồ
- Chuông thứ nhất: L’assunta, đúc năm 1654 bởi Giovanni Pietro Orlandi, trọng lượng 3.620 kg
- Chuông thứ hai: il Crocifisso, đúc năm 1572 bởi Vincenzo Possenti, trọng lượng 2.462 kg
- Chuông thứ ba: San Ranieri, đúc năm 1719-1721 bởi Giovanni Andrea Moreni, trọng lượng 1.448 kg
- Chuông thứ tư: La Terza (chiếc nhỏ nhất), đúc năm 1473, trọng lượng 300 kg
- Chuông thứ năm: La Pasquereccia, đúc năm 1262 bởi Lotteringo, trọng lượng 1.014 kg
- Chuông thứ sáu: il Vespruccio (nhỏ thứ hai), đúc thế kỷ 14 và đúc lại lần nữa năm 1501 bởi Nicola di Jacopo, trọng lượng 1.000 kg
- Chiếc thứ bảy: Del Pozzetto, đúc năm 1606, trọng lượng 652 kg
Mỗi lần tham quan tháp khách du lịch phải chia thành từng nhóm 30 người. Chuyến tham quan kéo dài 30 phút và không có thời gian nghỉ. Các hướng dẫn viên đưa ra các bài tập thể dục khởi động nhằm chuẩn bị cho các du khách để có thể leo liên tục 300 bậc thang nghiêng mà không bị chóng mặt.
Lối vào ở tầng cuối cùng khá chật hẹp, và có thể gây khó khăn với những người cao lớn. Trẻ em dưới 8 tuổi không được tham quan tháp, còn trẻ dưới 18 tuổi cần đi kèm với một người lớn. Các túi xách phải để lại dưới đất nhưng máy ảnh và máy quay thì có thể mang theo. Vào năm 2007 vé cho một chuyến tham quan 30 phút là 15€/ người.
Đấu trường La Mã Colosseum
Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfitea tro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Roma. Công suất chứa lúc mới xây xong là 100.000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu và nô lệ có nguồn gốc tù binh chiến tranh thi đấu và trình diễn công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70-80 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian.
Đấu trường Colosseum vẫn được sử dụng gần 500 năm với những bằng chứng ghi chép được về trận đấu thế kỷ 6 – rất lâu sau khi Đế chế La Mã sụp đổ năm 476. Ngoài sử dụng làm nơi đấu của võ sỹ, nơi đây còn được dùng làm biểu diễn công chúng, tập trận giả trên biển, săn thú, kịch cổ điển. Công trình này dần dần không được sử dụng làm nơi giải trí nữa thời Trung Cổ. Sau này, đấu trường được sử dụng làm nhà ở, cửa hàng, nhà thờ, pháp trường…
Kích thước của Colosseo: cao 48 m, dài 189 m, rộng 156 m.
Không giống như các đấu trường trước đó, công trình này là một cấu trúc đứng tự do, được xây trên một mặt đất bằng phẳng chứ không phải dựa vào đồi hay chỗ lõm tự nhiên. Tường bên ngoài thoạt đầu có chu vi 545 m và cần phải dùng 100.000 m3 đá travertine được giữ với nhau bằng 300 tấn vòng kẹp sắt. Nó có thể chứa tới 50.000 dến 80.000 người, và được thiết kế tốt đến nỗi mỗi người có thể ra khỏi tòa nhà này trong vòng mấy phút.
Bí mật nằm trong việc sử dụng tài tình các mái vòm cuốn, các hành lang và các bậc lên xuống dẫn tới chỗ ngồi. Các mái vòm bên trên tầng trệt tạo ra 80 lối vào chỗ đông người, mỗi lối vào có đánh số giúp khách tìm thấy chỗ ngồi của họ. Một tấm vải bạt khổng lồ che nắng che mưa thường được căng ra bên trên và trong các buổi trình diễn đêm, một đèn chùm bằng sắt khổng lồ treo lơ lửng bên trên đấu trường. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, nó đã bị hư hỏng do thiên nhiên tác động (động đất). Chu vi phía bắc của Đấu trường vẫn còn nguyên với dấu vết trùng tu của thế kỷ 19. Phần còn lại của Coloseo ngày ngày nay là bức tường gốc như lúc đang xây.
Vương cung thánh đường Thánh Máccô
Vương cung thánh đường chính tòa thượng phụ Thánh Máccô (tiếng Ý: Basilica Cattedrale Patriarcale di San Marco) tại Venezia, Italia, là bảo vật quốc gia của Cộng hòa Venezia cho đến năm 1797 và từ năm 1807 là nhà thờ chính tòa của Venezia. Nhà thờ nằm trên Quảng trường San Marco trong khu phố San Marco.
Trên 500 cột bằng đá hoa, porphyry, thạch anh (jasper), serpentine và thạch cao tuyết hoa (alabaster) trang trí cho mặt ngoài cũng như bên trong nhà thờ. Các tấm tranh khảm (mosaic) trên nền mạ vàng (diện tích tổng cộng là 4.240 m²) đã mang lại cho nhà thờ tên “Nhà thờ Vàng”. Các bức lâu đời nhất xuất phát từ thế kỷ 12, phần lớn là từ thế kỷ 13. Một vài bức – đặc biệt là mặt ngoài nhà thờ – đã được thay thế bằng các tác phẩm có cùng motiv từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Cổng chính được trang trí bằng đầu sư tử có 3 vòm với các tượng từ thế kỷ 13 mô tả các phường hội Venizia, tượng trưng của 12 tháng trong năm và biểu tượng của đức hạnh. Trước cửa sổ tầng trên là bản sao của bốn con ngựa nổi tiếng bằng đồng mạ vàng. Mỗi một tượng ngựa cao 1,60 m và nặng 875 kg. Chúng xuất phát từ khoảng thế kỷ thứ 4, do Enrico Dandolo mang về Venezia từ Constantinopolis trong cuộc Thập tự chinh lần thứ 4.
Nhà thờ được chia làm 3 gian và, theo gương mẫu Byzantine, có một gian tiền sảnh với các bức tranh khảm (1220-1290) mô tả cảnh trong sách Cựu Ước. Thuộc vào trong số các phẩm nổi tiếng nhất là Pala d’oro, màn che phía sau của bàn thờ chính (thế kỷ 10 – thế kỷ 14).
Điểm thu hút chính bên trong nhà thờ là các tấm tranh khảm. Các tác phẩm này được bắt đầu dưới thời của tổng trấn Domenico Selvo (1071 – 1084) và được tiếp tục trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trên diện tích 4.240 m², bộ tranh khảm lớn nhất của phương tây mô tả lại các đề tài trong kinh Cựu Ước (trên tiền sảnh) và Tân Ước (trong nhà thờ). Nơi rửa tội trong phần phía nam của tiền sảnh cũng được trang trí với rất nhiều tranh khảm, thuộc vào trong số các tranh khảm đẹp nhất trong nhà thờ.
Nhà thờ Thánh Mark có 2.600 cột (người ta tin rằng trong số đó có một vài cột từ Đền thờ Salomon), được dựng phía ngoài và bên trong, chủ yếu là để trang trí và cũng là biểu tượng cho quyền lực của Venice.
Nhà thờ chính tòa Florence Cathedral
Cattedrale di Santa Maria del Fiore là nhà thờ chính của Firenze, Italia. Il Duomo di Firenze, như thành đường này vẫn thường gọi, đã được bắt đầu từ năm 1296 theo phong cách kiến trúc đẹp tại Ý với thiết kế của Arnolfo di Cambio và hoàn thành cấu trúc trong năm 1436 với những mái vòm thiết kế bởi Filippo Brunelleschi. Bên ngoài của nhà thờ được lát bằng các tấm đá cẩm thạch nhiều màu trong sắc thái khác nhau của màu xanh lá cây và màu hồng giáp màu trắng và có một thế kỷ 19 xây dựng Gothic Phục hưng mặt tiền bởi Emilio De Fabris.
Tổ hợp nhà thờ, nằm ở quảng trường Piazza del Duomo, bao gồm Thành đường rửa tội và Gác chuông Giotto. Ba tòa nhà này là một phần của di sản thế giới UNESCO bao gồm trung tâm lịch sử Firenze và là một điểm thu hút lớn đối với du khách đến thăm Tuscany. Các nhà thờ là một trong những nhà thờ lớn nhất của Ý, và cho đến khi sự phát triển của vật liệu cấu trúc mới trong kỷ nguyên hiện đại, mái vòm là lớn nhất trên thế giới. Nó vẫn là mái vòm bằng gạch lớn nhất từng được xây dựng.
Bước vào Nhà thờ Florence, du khách có thể thưởng thức rất nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, cho thấy sự thay đổi thị hiếu mạnh mẽ về nghệ thuật trong khoảng thời gian từ khi khởi công công trình đến khi kết thúc: Nhà thờ được khởi công vào năm 1296 theo phong cách Gothic với thiết kế của Arnolfo di Cambio và hoàn thành xây dựng vào năm 1436 với mái vòm thiết kế bởi Filippo Brunelleschi. Ngoại thất của Nhà thờ được trang trí bằng các bức tranh bằng đá cẩm thạch đa sắc với nhiều màu xanh lá cây và hồng khác nhau được trang trí bằng màu trắng. Và mặt tiền Gothic Revival được xây dựng vào thế kỉ 19 bởi Emilio De Fabris.
Đài phun nước Trevi
Đài phun nước Trevi (tiếng Ý: Fontana di Trevi) là một đài phun nước ở quận Trevi ở Roma, Italia, do kiến trúc sư Ý Nicola Salvi thiết kế và hoàn thiện bởi Pietro Bracci. Đài cao 26,3 mét (86 ft) và rộng 49,15 mét (161,3 ft), là đài phun nước Baroque lớn nhất ở thành phố và là một trong các đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Đài phun nước đã xuất hiện trong nhiều phim nổi tiếng, bao gồm phim La Dolce Vita của Federico Fellini và Roman Holiday.
Đài phun nước Trevi là đài phun nước phong cách baroque lớn nhất tại Rome, và là kiệt tác vĩnh cửu của Nicola Salvi và Giuseppe Pannini. Đài phun nước được tên theo vị trí của nó ở ngã ba của ba con đường (“tre vie”).
Các cuộc thi đã trở nên phổ biến trong thời kỳ Baroque để thiết kế các tòa nhà, đài phun nước, cũng như các bậc thang Tây Ban Nha. Vào năm 1730, Giáo hoàng Clement XII đã tổ chức một cuộc thi trong đó Nicola Salvi ban đầu thua Alessandro Galilei – nhưng Salvi vẫn được trao dự án. Công việc bắt đầu vào năm 1732. Sau khi Salvi qua đời năm 1751, Giuseppe Pannini được thuê làm kiến trúc đẹp tại Italia và hoàn thành năm 1762 và Đài phun nước được chính thức khai trương và khánh thành vào ngày 22 tháng 5 bởi Giáo hoàng Clement XIII.
Đài phun nước Trevi được tạo ra chủ yếu từ đá vôi và đá cẩm thạch Carrara, nổi bật giữa đài phun nước là một vị thần Oceanus râu ria cưỡi trên một chiếc xe ngựa hình vỏ sò được kéo bởi những chú ngựa và hai vị thần Triton. Bức tượng Abundance đứng ở góc tường bên trái đang khua chiếc sừng dê kết hoa quả của nàng, trong khi ở phía đối diện là bức tượng đội vòng nguyệt quế cầm một chiếc cốc mà một con rắn uống nước từ đó. Những người say mê làm vườn sẽ thích thú khi cố phát hiện 30 loài thực vật khác nhau được chạm khắc vào đài phun nước.
Chuyến ghé thăm đài phun nước không thể coi là hoàn hảo nếu du khách không tung một ít tiền lẻ vào nước. Người ta cho rằng một đồng xu sẽ khiến bạn trở lại thăm Rome, hai đồng xu sẽ làm bạn đem lòng yêu một người La Mã và ba đồng xu là tín hiệu cho tiếng chuông đám cưới của bạn. Cho dù những điều trên có ứng nghiệm hay không, đài phun nước thu được khoảng $4.000 mỗi ngày và mỗi buổi sáng, người ta sẽ vớt những đồng xu lên và quyên góp cho tổ chức từ thiện địa phương.
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô là một trong bốn nhà thờ lớn nhất ở Vatican. Tên đầy đủ của công trình này là Vương cung Thánh đường Tông Tòa Thánh Phêrô, nhưng đôi khi được gọi tắt là Đền thờ Thánh Phêrô hoặc Nhà thờ Thánh Phêrô.
Thánh đường này được Donato Bramante, Michelangelo, Carlo Maderno và Gian Lorenzo Bernini, thiết kế, đây là kiệt tác nổi tiếng nhất của kiến trúc Ý và là một trong những nhà thờ lớn nhất trên thế giới. Tuy nó không phải là nhà thờ mẹ của Giáo hội Công giáo Rôma và cũng không phải là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma, Thánh đường thánh Peter được coi như một trong những thánh đường thần thánh nhất của Công giáo. Nó đã được mô tả như một thánh đường “giữ vị trí độc nhất trong thế giới Công giáo” và như là “nhà thờ vĩ đại nhất trong những nhà thờ Công giáo”.
Thánh đường thánh Phêrô là một nhà thờ theo phong cách Phục Hưng nằm tại thành phố Vatican, phía tây của sông Tiber và gần đồi Janiculum và Lăng Hadrian. Kiến trúc vòm trung tâm của nó nổi bật trên đường chân trời của thành phố Rome. Tới thánh đường phải đi qua Quảng trường Thánh Phêrô, một sân trước có hai phần, cả hai phần được một dãy cột cao bao quanh. Không gian đầu tiên có hình bầu dục và không gian thứ hai có hình thang. Mặt tiền của thánh đường, với một số lượng lớn cột trụ, trải dài trên phần cuối của quảng trường và được nối tiếp bằng các bậc thềm, ở trên đó có hai bức tượng của các tông đồ thế kỷ 1 tới Rome, thánh Peter và Paul cao 5,55 m (18,2 ft).
Nhà thờ này được khởi công xây dựng ngày 18 tháng 4 năm 1506 trên nền một nhà thờ khác. Chính Giáo hoàng Giuliô II đã ra lệnh phá bỏ nhà thờ cũ này để xây nhà thờ mới với mong muốn đây sẽ là nơi chôn cất chính mình sau khi mất. Do đó, ông đã chọn họa sĩ nổi tiếng Michelangelo làm người đứng đầu việc xây dựng công trình này. Tuy nhiên, Michelangelo phải nhường vị trí này cho Donato Bramante do một số tranh cãi về việc có nên phá bỏ nhà thờ cũ hay không. Bramante đã cho phá bỏ hầu hết nền nhà thờ 1.200 năm cùng với 4 cây cột.
Kiến trúc Italia là vòm trung tâm của nó nổi bật trên đường chân trời của thành phố Rome. Tới thánh đường phải đi qua Quảng trường Thánh Phêrô, một sân trước có hai phần, cả hai phần được một dãy cột cao bao quanh. Không gian đầu tiên có hình bầu dục và không gian thứ hai có hình thang. Mặt tiền của thánh đường, với một số lượng lớn cột trụ, trải dài trên phần cuối của quảng trường và được nối tiếp bằng các bậc thềm, ở trên đó có hai bức tượng của các tông đồ thế kỷ 1 tới Rome, thánh Peter và Paul cao 5,55 m (18,2 ft).
Thánh đường có hình chữ thập, với một gian giữa thon dài dưới dạng thánh giá nhưng những thiết kế ban đầu là một cấu trúc tập trung ở giữa và điều này vẫn còn là bằng chứng trong kiến trúc ngày nay. Các không gian trung tâm chi phối cả bên ngoài và bên trong bằng một trong những mái vòm lớn nhất thế giới. Lối vào thông qua một tiền sảnh kéo dài suốt tòa nhà. Một trong những cánh cửa bằng đồng kéo dài từ tiền sảnh là Cửa Thánh, chỉ mở trong dịp lễ Jubilees.
Nội thất của thánh đường này có kích thước rất lớn khi so sánh với các nhà thờ khác. Một tác giả đã viết: “Từ từ chúng ta nhận ra – khi chúng ta thấy mọi người đến gần tượng đài này, điều kỳ lạ xuất hiện khi các khách tham quan có vẻ nhỏ đi, tất nhiên, nhỏ so với quy mô của tất cả mọi thứ trong tòa nhà này. Cảm xúc này đã lấn lướt chúng ta.”
Nhà thờ chính tòa Milano
Nhà thờ chính tòa Milano là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Milano, tọa lạc ở thành phố Milano, Lombardia, miền bắc nước Ý. Động thổ từ năm 1386 và phải mất 5 thế kỷ để xây dựng đại thánh đường theo phong cách kiến trúc Gothic này và hiện là nhà thờ Công giáo Rôma lớn thứ tư trên thế giới.
Được xây dựng từ năm 1386 ở Lombardia, đây là một trong những thánh đường vô cùng tráng lệ và thiêng liêng của miền bắc Italia. Mất tới 5 thế kỷ để hoàn thành nhà thờ công giáo Milano.
Diện tích của nhà thờ lên đến 12.000 mét vuông ở trung tâm thành phố, đây cũng là một trong những công trình nổi bật nhât của thành phố Mila. Nơi đây là địa điểm diễn ra những buổi cầu kinh thường xuyên được tổ chức bên trong Duomo mà người dân địa phương đều biết.
Nhà thờ được trang trí bằng những bức tượng đầu thú và tượng, bạn có thể ngắm bức tượng Madonna nổi tiếng bằng kim loại trên cao, nơi đây còn có cả bức tượng Madonnina đặt cách mặt đất 108 mét được mạ bằng vàng tỏa sáng rực rỡ trong ánh mặt trời.
Nội thất của Nhà thờ Milano có sự ấm cúng khác thườngbên cạnh sự đồ sộ của nó. Những cánh cửa sổ được làm bằng kính màu tuyệt đẹp miêu tả những cảnh bên trong kinh thánh và phản chiếu ánh sáng kỳ lạ trên sàn nhà thờ. Phía dưới những bậc cầu thang được làm bằng đá cẩm thạch từ nhà thờ chính bạn có thể khám phá kho báu của nơi này, và còn thể sẽ tìm thấy các hiện vật thời đầu Kitô giáo và La Mã.
Nhà thờ vẫn hoạt động và đây chính là trụ sở của tổng giám mục của Milan. Nơi đây thường xuyêndiễn ra các buổi cầu kinh được tổ chức bên trong Duomo. Ngoài ra, bạn còn có cơ hội ngắm các đặc trưng của nhà thờ. Chiêm ngưỡng những ngọn tháp từ bên ngoài tại Quảng trường Piazza del Duomo hoặc leo lên mái nhà để có ngắm nhìn khắp thành phố.
Đại cung điện hoàng gia Caserta
Đại cung điện hoàng gia Caserta là một cung điện hoàng gia nằm ở Caserta, Campania, Ý. Cung điện thuộc về nhà hoàng gia của Bourbon vua Napoli. Nó là “cung điện lớn nhất thế giới theo thể tích” với hơn 2 triệu mét khối (70 triệu cubic feet). Cung điện được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1997.
Ở phía nam, tòa nhà có chiều dài 249 mét, tăng 37,83 và được trang trí với mười hai cột. Mặt tiền chính có một bộ phận trước trung tâm đứng đầu của một hình tam giác; các cạnh của bảng, nơi mà cơ thể của tòa nhà cắt chéo theo chiều dọc, tham gia hai bụng khác. Khu vườn phía trước là giống như trước đây, nhưng có cửa sổ đóng khung bởi rãnh.
Các công viên hoàng gia của Caserta trải dài dài 3 km, với việc phát triển miền Nam-Bắc, khoảng 120 ha. Tại trung tâm của mặt tiền phía sau của tòa nhà chi nhánh ra hai con đường song song dài bao gồm xen một loạt các đài phun nước ấn tượng rằng, bắt đầu từ rìa phía bắc của vườn Ý, liên kết đến đây các Khu vườn Anh.
Có diện tích khoảng 47.000 m². Ngoài ra để xây dựng một vành đai hình chữ nhật, cung điện có, trong hình chữ nhật, hai cơ quan của tòa nhà đó cắt nhau tại qua và hình thành bốn sân lớn hơn 3.800 m². Trong số tất cả những dinh thự hoàng gia lấy cảm hứng từ Cung điện Versailles.
Được thiết kế sử dụng các tấm quang điện để tự cung cấp năng lượng cho tòa nhà, nước thải từ các khu phức hợp được lọc và tái sử dụng để tưới cho cây trồng.
Tòa nhà Bosco Verticale
Dự án chung cư xanh cao tầng Bosco Verticale được xây dựng tại một thành phố đẹp và thơ mộng Milan – Italy, do công ty kiến trúc Stefano Boeri Architetti thiết kế. Toaf nhà được ví như một vườn thẳng đứng đầu tiên trên thế giới với 730 cây xanh, 5.000 cây bụi, 11.000 dây leo và cây cỏ phủ khắp 27 tầng. Công trình đã đoạt giải thưởng năm 2014 hạng mục nhà ở cao tầng quốc tế.
Hai tòa nhà có chiều cao lần lượt là 80m và 110m. Sự kết hợp của các cây to và nhỏ được trồng ở ban công trên bốn mặt của các tòa nhà, trang trí cho các căn hộ tại đây. Nhóm thiết kế cho hay cây cối sẽ có chức năng hấp thụ bui trong không khí giúp giảm ô nhiễm môi trường.
Ở đây cả hai tòa nhà có 113 căn hộ với những khu vườn riêng ở các ban công. Ngoài ra còn có các khu văn phòng, thương mại được xây dựng tạo đây. Ở mọi vị trí trong tòa nhà chúng ta đều thấy xuất hiện màu xanh của cây cối. Được thiết kế sử dụng các tấm quang điện để tự cung cấp năng lượng cho tòa nhà, nước thải từ các khu phức hợp được lọc và tái sử dụng để tưới cho cây trồng.
Đại học Bologna
Viện Đại học Bologna là một viện đại học ở Bologna, Ý, được thành lập vào năm 1088, trở thành trường lâu đời nhất trên thế giới với chất lượng giảng dạy hàng đầu không chỉ ở Ý mà còn trên toàn châu Âu. Khẩu hiệu của viện đại học này là tiếng Latinh: Alma mater studiorum có nghĩa là “người mẹ nuôi dưỡng các ngành học”).
Hoạt động trong suốt gần 10 thế kỷ, cho đến nay trường vẫn giữ nguyên được nét kiến trúc cổ kính như từ thời trung cổ. Bologna thường xuyên được đánh giá là một trong những đại học có khuôn viên đẹp nhất thế giới, nhiều sinh viên từ khắp nơi cũng mong muốn được học tại đây những toà nhà và lớp học nguy nga không kém các cung điện Hoàng gia.
Cũng chính bởi vậy mà ngoài thu hút sinh viên, Đại học Bologna còn được các các nhà nghiên cứu, kiến trúc sư khắp thế giới dành nhiều sự quan tâm.
Nhờ kiến trúc tại Ý cổ kính, trường thu hút nhiều khách du lịch tới tham quan. Năm 2010, Đại học Bologna được QS World University Rankings xếp hạng 176 trong danh sách các trường Đại học trên thế giới.Đại học Bologna có nhiều thư viện đồ sộ, cổ kính với không gian yên tĩnh, truyền cảm hứng cho người học. Thư viện trường thường xuyên có mặt trong danh sách top 10 thư viện đẹp nhất thế giới.
Những mái vòm được trang trí tỉ mỉ và những dãy hành lang, hàng cột uy nghiêm có tuổi đời hàng trăm năm là điểm nhấn đặc biệt của trường.
Lâu đài Castel del Monte
Castel del Monte là một lâu đài ở vùng Apulia, miền đông nam Ý. Lâu đài này đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1996, trong khóa họp thứ 20, với nhận xét là “một tuyệt tác độc đáo của kiến trúc quân sự thời trung cổ”. Hình Castel del Monte được thể hiện trên mặt trái của đồng tiền kim loại 1 cent euro phát hành ở Ý.
Ban đầu lâu đài được hoàng đế Frederik II chủ yếu dùng làm nhà nghỉ ở nơi săn bắn cho tới năm 1250. Sau đó lâu đài trở thành nhà tù, rồi được dùng làm nơi trú ẩn trong thời kỳ dịch bệnh, rồi cuối cùng bị bỏ hoang, rơi vào tình trạng ọp ẹp. Ban đầu lâu đài có các cột và tường bằng đá hoa, nhưng trong các thế kỷ sau này, các đồ nội thất và các đồ bằng cẩm thạch bên trong lâu đài đã bị cuớp sạch.
Lâu đài có dạng hình 8 cạnh, mỗi góc có 1 pháo đài cũng hình 8 cạnh. Mỗi tầng có 8 phòng và ở giữa là một sân cũng hình 8 cạnh. Hình dạng 8 cạnh được cho là biểu tượng trung gian giữa 1 hình vuông (tượng trưng cho đất) và 1 hình tròn (tượng trưng cho bầu trời). Có thể Frederick II đã lấy mẫu dạng này từ Dome of the Rock (đền thờ Hồi giáo lớn) ở Jerusalem – mà ông ta đã thấy khi tham gia cuộc Thập tự chinh – hoặc theo mẫu nguyện đường cung đình ở nhà thờ chính tòa Aachen.
Bức tường chính cao 25 m, 8 pháo đài ở 8 góc cao 26 m. Các cạnh của lâu đài bát giác. mỗi cạnh dài 16,5 m và các cạnh của các pháo đài hình 8 cạnh mỗi cạnh dài 3,1 m. Lâu đài có đường kính dài 56 m. Lối vào chính ở hướng đông.
Sau khi bị bỏ hoang trong thời gian quá lâu, năm 1876 lâu đài được chính phủ Ý mua với số tiền 25.000 lire, và bắt đầu được tu bổ trong năm 1928.
Cốt truyện chủ yếu trong tiểu thuyết The Name of the Rose của Umberto Eco xảy ra trong 1 lâu pháo đài cũ tên ‘Aedificium’, chắc chắn là được gợi ý từ Castel del Monte.
Đền thờ Hera
Tính năng nổi bật nhất của khu di tích này là ba ngôi đền Hy Lạp cổ đại lớn sử dụng các thức cột Doric có niên đại từ khoảng 550 đến 450 trước Công nguyên. Tất cả đều là những công trình kiến trúc tại Italia điển hình thời kỳ này, Với những thức cột Doric khổng lồ có đường cong lồi ấn tượng, mở rộng ở chân cột giống như những cây nấm mọc ngược.
Đây là các ngôi đền được dành cho các vị thần Hera, Athena và Poseidon (trong Lã Mã là Juno, Minerva, và Neptune) mặc dù trước đó, sau những tranh luận thế kỷ 18 cho rằng nó được dành cho vị thần Ceres (trong Hy Lạp là Demeter). Hai đền thờ của Hera nằm cạnh nhau trong khi Đền thờ Athena nằm ở phía bên kia khu dân cư cổ đại. Paestum nằm xa các khu vực khai thác đá cẩm thạch tốt. Ba ngôi đền chính có vài bức phù điêu bằng đá trong khi một số cấu trúc sử dụng đất nung. Nhiều mảnh đất nung lớn hiện được trưng bày trong bảo tàng.
Đền thờ Thứ nhất của Hera được xây dựng vào khoảng năm 550 TCN theo lối kiến trúc Hy Lạp là ngôi đền còn tồn tại lâu đời nhất tại Paestum. Các nhà khảo cổ thế kỷ 18 đặt cho nó là “Vương cung thánh đường” vì một số người lầm tưởng nó là một công trình kiến trúc La Mã. Vương cung thánh đường cơ bản ban đầu là một hình thức xây dựng trước khi danh hiệu vương cung thánh đường được sử dụng để dành cho các nhà thờ.
Chữ khắc và tượng đất nung hé lộ rằng, đền thờ được dành riêng cho nữ thần Hera. Sau đó, bệ thờ ngoài trời ở trước đền đã được khai quật. Các tín đồ có thể tham gia các nghi thức và tế lễ mà không cần phải vào nội điện hay bên trong đền thờ. Các cột Doric khổng lồ với đường cong lồi trên thân cột, một số cột còn lưu giữ được cả màu sơn ban đầu. Đền thờ này rộng hơn hầu hết các đền thờ Hy Lạp cổ đại khác có lẽ vì hai cửa ra vào và một dãy gồm bảy cột chạy song song bên trong nội điện, một đặc điểm khác thường ở các đền thờ Hy Lạp. Chiều rộng của ngôi đền có chín cột là một điều bất thường trong khi chiều dài của đền thờ có mười tám cột. Điều này có thể là sự cần thiết khi thiết kế hai cửa.
Đền thờ Thứ hai của Hera được xây dựng khoảng 460-450 trước Công nguyên, ngay phía bắc của Đền thờ Thứ nhất. Nó đã từng bị nhầm tưởng là dành riêng cho thần Poseidon. Các cột không có hai muơi đường rãnh máng cột điển hình mà là hai muơi bốn. Đền thờ này cũng có kích thước cột rộng hơn và khoảng cách giữa chúng cũng nhỏ hơn. Ngôi đền cũng được sử dụng để thờ thần Zeus và một vị thần khác không rõ danh tính. Có thể nhìn thấy ở phía đông là phần còn lại của hai bàn thờ, một lớn và một nhỏ. Cái nhỏ hơn là một sự bổ sung từ thời La Mã, khi một con đường được xây dựng đến quảng trường La Mã đã cắt qua cái lớn hơn. Cũng có thể, ngôi đền ban đầu được dành riêng cho cả Hera và Poseidon; một số bức tượng nhỏ được tìm thấy xung quanh bàn thờ lớn hơn được cho là để chứng minh nhận định này.
Phía bắc của khu định cư cổ đại là Đền thờ Athena. Nó được xây dựng vào khoảng năm 500 trước Công nguyên và đôi khi thông tin không chính xác cho rằng nó được dành riêng cho nữ thần Ceres. Kiến trúc của nó có tính chuyển tiếp, một phần theo phong cách thức cột Ionic và một phần theo Doric sớm. Ba ngôi mộ Kitô giáo thời Trung Cổ cho thấy ngôi đền đã từng có khoảng thời gian được sử dụng làm nhà thờ Thiên chúa giáo.
Blog’s Nguyễn Kiều Việt Như, tổng hợp